Bản án 05/2021/DSST ngày 11/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 05/2021/DSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) huyện Tuy An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2013/TLST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2013 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C . Địa chỉ: Số A, Phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T – Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên. Địa chỉ: Quốc lộ X, khu phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Ông T ủy quyền cho ông Nguyễn Thành T - Phó giám đốc Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim H– sinh năm 1973.

Trú tại: Thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (có đơn xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T trình bày: Căn cứ danh sách đề nghị vay vốn tại Ngân hàng C – Phòng giao dịch huyện T của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ngày 07/12/2007. Ngày 14/12/2007, Ngân hàng C – Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên, đã giải ngân cho bà Nguyễn Thị Kim H vay số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), theo sổ vay vốn số 550454, lãi suất 0,9%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 1,17%/tháng, thời hạn vay 36 tháng, thời hạn trả nợ ngày 05/12/2010, có gia hạn thời hạn trả nợ đến ngày 05/12/2011. Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (cho vay ủy thác qua Hội Phụ nữ xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên).

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà Nguyễn Thị Kim H đã trả cho Ngân hàng số tiền gốc là 7.000.000đ và tiền lãi đến ngày 05/5/2011 là 6.135.000đ. Khi đến thời hạn trả nợ thì Bà H không trả tiền gốc và lãi còn lại. Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc yêu cầu Bà H trả hết số nợ nhưng Bà H vẫn không trả. Ngày 06/12/2011, Ngân hàng đã chuyển số tiền 13.000.000đ sang nợ quá hạn.

Vì vậy, nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc Bà H phải trả số tiền vay gốc: 13.000.000đ và tiền lãi tính đến ngày 11/5/2021 là 18.108.032đ (trong đó tiền lãi trong hạn đến ngày 5/12/2011 là 819.000đ và tiền lãi quá hạn tính đến ngày 11/5/2021 là 17.289.032đ).

- Theo các tài liệu có tại hồ sơ, bị đơn bà Nguyễn Thị Kim H trình bày:

Bà H thống nhất với trình bày của đại diện ngân hàng chính sách, Bà H thừa nhận có vay của Phòng giao dịch huyện T số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), theo sổ vay vốn số 550454, lãi suất 0,9%/tháng, thời hạn vay 36 tháng. Số tiền này Bà H đã trả hết cho Ngân hàng thông qua bà Đỗ Thị Thu T (thời điểm đó bà T là tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn) nhận (cụ thể, năm 2008 Bà H đưa cho bà T nhận 7.000.000đ, năm 2010 Bà H đưa bà T nhận 13.000.000đ để trả Ngân hàng) Vì vậy, nay Ngân hàng khởi kiện, Bà H không đồng ý trả nợ gốc và lãi theo yêu cầu của ngân hàng.

Vì điều kiện khó khăn, lo lao động làm ăn nên Bà H không đến Tòa án thường xuyên được. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt Bà H tại phiên tòa.

TAND huyện Tuy An đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tham gia phiên tòa phát biểu: Quá trình thụ lý, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Tuy nhiên, Thẩm phán vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 463, 465, 466 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn Bà H phải trả cho nguyên đơn Phòng giao dịch huyện T số tiền nợ gốc 13.000.000đ và nợ lãi tính đến ngày 11/5/2021 là 18.108.032đ. Đối với việc bà Đỗ Thị Thu T chiếm đoạt số tiền 13.000.000đ của Bà H thì Bà H có quyền yêu cầu bà T bồi thường số tiền này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ Điều 227 và Điều 228 của BLTTDS xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền còn nợ theo hợp đồng vay tài sản. Đây là tranh chấp về giao dịch dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại huyện T, tỉnh Phú Yên. TAND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 BLTTDS.

[3] Về nội dung tranh chấp:

- Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, HĐXX thấy rằng:

Căn cứ vào sổ vay vốn, sổ theo dõi cho vay và thu nợ gốc, lãi của Ngân hàng C – Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên thì giữa Ngân hàng và bà Nguyễn Thị Kim H có xác lập quan hệ vay tài sản, có thỏa thuận lãi và cam kết trả nợ, thời hạn trả nợ là ngày 05/12/2010, gia hạn đến 05/12/2011. Sau khi vay, Bà H có trả cho Ngân hàng tiền gốc 7.000.000đ và tiền lãi trong hạn đến ngày 5/5/2011 là 6.135.000đ; Khi đến hạn trả nợ, Bà H không trả số tiền gốc còn nợ 13.000.000đ và lãi nên tính đến ngày 11/5/2021 Bà H còn nợ Ngân hàng số tiền 31.108.032đ (trong đó tiền gốc 13.000.000đ; tiền lãi trong hạn 819.000đ; tiền lãi quá hạn 17.289.032đ). Mặt khác, tại phiên hòa giải Bà H cũng thừa nhận khoản vay đối với Ngân hàng. Bà H có vay của Ngân hàng chính sách nhưng không trả nợ theo thời hạn là xâm phạm đến quyền lợi của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện là có căn cứ.

Xét trình bày của Bà H tại phiên hòa giải: Bà H cho rằng số tiền gốc và lãi mà Ngân hàng yêu cầu, Bà H đã trả cho Ngân hàng thông qua bà Đỗ Thị Thu T. HĐXX thấy, bà Đỗ Thị Thu T là người không được Ngân hàng ủy nhiệm để thực hiện việc thu tiền gốc vốn vay. Tuy nhiên, bà T đã lợi dụng sự tín nhiệm của mình trước đây từng làm tổ trưởng tổ vay vốn nên Bà H đã tin tưởng đưa tiền cho bà T để nộp Ngân hàng. Bà T không nộp Ngân hàng mà chiếm đoạt cá nhân. Hành vi này của bà Đỗ Thị Thu T đã bị TAND tỉnh Phú Yên xét xử và kết án 03 năm 06 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo bản án số 02/2019/HS-PT, ngày 27/02/2019. Và tại phần trách nhiệm bồi thường dân sự đã có hiệu lực pháp luật tại bản án hình sự sơ thẩm số 24/2018/HSST ngày 14/11/2018 của TAND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên có tuyên buộc bà T phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn Thị Kim H số tiền 13.000.000đ. Vì vậy, Bà H có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự đối với bà T để buộc bà T phải trả lại số tiền này. Còn tại sổ vay vốn số 550454 không thể hiện việc Bà H đã trả tiền vay cho Ngân hàng. Do đó, việc Bà H cho rằng đã trả hết khoản nợ vay cho Ngân hàng mà không có chứng cứ gì chứng minh, nên HĐXX không có cơ sở để xem xét.

Từ các chứng cứ trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của Viện kiểm sát. Buộc Bà H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng C - Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên số tiền nợ gốc 13.000.000đ và tiền lãi tính đến ngày 11/5/2021 là 18.108.032đ; Tổng cộng 31.108.032đ (Ba mươi mốt triệu một trăm lẻ tám nghìn không trăm ba mươi hai đồng).

[4] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 31.108.032đ x 5% = 1.555.401đ; Hoàn trả tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Kim H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng C - Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên số tiền 31.108.032đ (Ba mươi mốt triệu một trăm lẻ tám nghìn không trăm ba mươi hai đồng) (trong đó: nợ gốc 13.000.000đ; tiền lãi trong hạn 819.000đ; tiền lãi quá hạn 17.289.032đ).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Bà H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà Bà H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim H phải chịu 1.555.401đ (Một triệu năm trăm năm mươi lăm nghìn bốn trăm lẻ một đồng) án phí dân sự sơ thẩm Hoàn lại cho Ngân hàng C - Phòng giao dịch huyện T, tỉnh Phú Yên 392.000đ (Ba trăm chín mươi hai nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền số AA/2010/05739 ngày 26/7/2013 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/DSST ngày 11/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:05/2021/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy An - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;