TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 05/2020/HSST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với: Bị cáo Hà Mạnh T, sinh năm 1986, tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ.
Nơi cư trú: Khu V, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Tiến D, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị T, sinh ngăm 1967; bị cáo có vợ là Phan Thị C (đã ly hôn) và 01 người con sinh năm 2008.
Tiền sự: Không.
Tiền án: Bản án số 201/2018/HSST ngày 25/9/2018, bị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt T 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt và án phí ngày 16/01/2020.
Nhân thân: Tại bản án số 12/2013/HSST ngày 07/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xử phạt T 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/8/2020, hiện nay đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Bị cáo có mặt.
Người bị hại:
- Anh Hoàng Trung D, sinh năm 1982 Địa chỉ: Xóm C2, xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ ngày 06/8/2020, Hà Mạnh T có thuê một xe taxi của hãng Thịnh Hưng, T không biết tên, tuổi người lái xe đi đến nhà Hoàng Trung D ở xóm C2, xã S để rủ D đi chơi, khi đến nhà D thì D đi vắng, chỉ có mẹ D là bà Nguyễn Thị K đang ở nhà D. Tại đây, T có nói chuyện và hỏi bà K là D đi đâu, bà K nói, D đi chơi cùng bạn từ sáng. Trong lúc nói chuyện với bà K, T nhìn thấy trong phòng khách có một chiếc ti vi LG màn hình phẳng màu đen trên kệ nên T nảy sinh ý định trốm cắp chiếc ti vi này để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. T đi vòng ra sau nhà vệ sinh, sau khi đi vệ sinh xong, T đi vào phòng khách thì không thấy bà K đâu, thì T đi lại chỗ ti vi dùng tay rút dây ăng ten ra khỏi ti vi, dây nguồn ti vi không cắm ổ điện. Sau đó T dùng hai tay bê ti vi và cầm theo điều khiển ti vi đi ra chỗ xe ô tô ta xi đang đợi và bảo lái xe mở cốp xe ô tô rồi cho ti vi vào cốp, T bảo lái xe trở lên xã M. Khi đến khu Đ, xã M, T thấy có một quán sửa chữa điện tử, điện lạnh của anh Nguyễn Đức Q thì T bảo lái xe taxi dừng lại và T đi vào quán. Tại đây T hỏi anh Q có mua ti vi cũ không. Anh Q bảo với T là có mua rồi T đi ra xe taxi mở cốp xe bê ti vi và cầm điều khiển đi vào quán, tại đây Q xem ti vi mà không biết ti vi đó là do T trộm cắp được mà có nên anh Q trả giá 1.200.000 đồng, T đồng ý bán, Q đưa cho T số tiền 1.200.000 đồng và yêu cầu T viết giấy bán ti vi. Do không muốn anh Q biết thông tin cá nhân mình nên T viết trong giấy bán ti vi tên Nguyễn Thế D, ở khu 07, xã M, huyện H. Sau đó T cầm tiền ra về và tiêu sài cá nhân hết số tiền này.
Quá trình làm việc với cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp trên của bản thân. Lời khai của T phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án.
Ngày 07/8/2020, cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ một chiếc ti vi màn hình phẳng, màu đen 40 inh nhãn hiệu LG 40 LF630T-TA, sản xuất tháng 10/2015 kèm một chiếc điều khiển ti vi có kí hiệu RML1162 đã qua sử dụng.
Tại biên bản kết luận định giá tài sản số 41/KLĐG cùng ngày của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: 01 chiếc ti vi màng hình phẳng màu đen 40 inh nhãn hiệu LG 40 LF630T-TA, sản xuất tháng 10/2015 đã qua sử dụng kèm một chiếu điều khiển ti vi có kí hiệu RML1162 đã qua sử dụng trị giá 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Số tiền sau khi T bán được ti vi cho Quân thì T tiêu sài cá nhân hết.
Cáo trạng số 54/CT-VKSCK-HS ngày 19/10/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê truy tố bị cáo Hà Mạnh T về tội: Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Mạnh T phạm tội: Trộm cắp tài sản:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hà Mạnh T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữm tạm giam, ngày 07/8/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ đã trả lại cho anh D 01 chiếc ti vi màu đen 40 inh nhãn hiệu LG 40 LF630T-TA, sản xuất tháng 10/2015 và 01 chiếc điều khiển ti vi có kí hiệu RML1162 đã qua sử dụng cho anh D theo biên bản trả tài sản ngày 21/8/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Q không đề nghị bị cáo phải bồi thường số tiền 1.200.000 đồng nên đề nghị không xem xét.
Về án phí: Bị cáo Hà Mạnh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tham gia tranh luận đối với bản luận tội và đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.
[2]. Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:
Trên cơ sở xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã xác định được: Vào khoảng 11 giờ ngày 06/8/2020, tại nhà anh Hoàng Trung D ở xóm C 2, xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ; Hà Mạnh T đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc ti vi màn hình phẳng màu đen 40 inh nhãn hiệu LG 40 LF630T-TA và một chiếu điều khiển ti vi có kí hiệu RML1162 đã qua sử dụng của anh D trị giá 2.500.000 đồng.
Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa.
Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Bị cáo Hà Mạnh T đã phạm tội trộm cắp tài sản.
Do vậy bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê truy tố đối với bị cáo Hà Mạnh T về tội: Trộm cắp tài sản; là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
….
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Bị cáo phạm tội là lỗi cố ý; mức độ phạm tội là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm.
[4]. Về các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo giúp việc điều tra được thuận lợi, nên bị cáo đã được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Về nhân thân của bị cáo: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân xấu.
Căn cứ tính chất hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới đảm bảo trừng trị, giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.
[5]. Về hình phạt bổ sung:
Khoản 5 của Điều 173 của Bộ luật hình sự còn quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Xét thấy: Nghề nghiệp chính của bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định; kết quả xác minh gia đình bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[6]. Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng:
Vật chứng vụ án là viếc ti vi và chiếc điều khiển ti vi bị cáo trộm cắp của anh D, nay đã được trả lại cho anh D cần xác nhận.
[7]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Q không đề nghị xem xét, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật:
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Hà Mạnh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Hà Mạnh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/8/2020.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ đã trả lại cho anh D 01 chiếc ti vi màu đen 40 inh nhãn hiệu LG 40 LF630T-TA, sản xuất tháng 10/2015 và 01 chiếc điều khiển ti vi có kí hiệu RML1162 đã qua sử dụng cho anh D theo biên bản trả tài sản ngày 21/8/2020.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự: điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hà Mạnh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo; người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 05/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 05/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về