TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 05/2020/HSST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI ĐƯA HỐI LỘ
Ngày 16/01/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 03/01/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 03/2020/QĐXXST-HS ngày 06/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện L đối với bị cáo:
Lý Trường G, sinh năm 1976 tại;Đồng Nai Tên gọi khác: không: Nơi cư trú: 18A/314, Chung cư H, phường P, QuậnT, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không ; Trình độ học vấn: 4/12 Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Trần T, sinh năm: 1956 ( Chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm: 1958; vợ Nguyễn Thanh T1 sinh năm 1978; có 01 người con sinh năm 1996.
Tiền án: ngày 29/3/1995 bị TAND Quận X thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 4 tháng tù về tội cướp giật tài sản.
Ngày 01/7/1996 tòa án nhân nhân tối cao tại TP Hồ Chí Minh xử phúc thẩm phạt 04 năm tù về tội cướp tài sản công dân và gây rối trật tự công cộng.
Ngày 23/03/2001 tòa án nhân nhân tối cao tại TP Hồ Chí Minh xử phúc thẩm phạt 07 năm tù về tội tang trữ trái phép chất ma túy.
Ngày 17/3/2009 TAND Quận B, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 13 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 12/9/2019 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. tiền sự: không
Người làm chứng: Hoàng H sinh năm:1983 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Đội CSĐTTP về ma túy- Công an huyện L, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 11/9/2019 Lý Trường G từ Lào về Việt Nam trên 01 chuyến xe khách biển số 51B-282.62, khi xe đến cửa khẩu quốc tế H , thuộc ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước, qua kiểm tra hành lý và hàng hóa trên xe, phát hiện trong số hàng hóa trên xe có chứa 16kg chất rắn màu trắng. Nghi là ma túy nên đồn cửa khẩu H đã đưa xe ô tô và tài xế lai xe cùng những hành khách đi trên xe về đồn cửa khẩu quốc tế H để làm việc đồng thời đồn cửa khẩu quốc Tế H đã thông báo cho phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Phước, đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện L phối hợp điều tra. Trong số các hành khách đó có Lý Trường G.
Qua công tác điều tra, có xét nghiệm nước tiểu của Lý Trường G kết quả cho thấy bị cáo có sử dụng ma túy. Do bị cáo sợ lập hồ sơ đưa đi cai nghiện, gia đình biết nên trong lúc làm việc với anh Hoàng H vào khoảng 16 giờ ngày 12/9/2019, bị cáo đã dùng số tiền 1.500USD đưa cho anh H và xin anh H bỏ qua chuyện bị cáo có sử dụng ma túy. Anh H đã giữ lấy tay của bị cáo cùng với số tiền đồng thời thông báo với đồn cửa khẩu quốc tế H tiến hành lập biên bản về hành vi đưa hôi lộ của Lý Trường G và thu giữ số tiền 1.500USD của bị cáo.
Quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận mục đích và động cơ của việc đưa số tiền cho anh H là vì muốn anh H cho qua chuyện bị cáo có sử dụng ma túy sẽ không xử theo quy định của pháp luật.
Bản cáo trạng số 07/CTr-VKS ngày 31/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Lý Trường G về tội “Đưa hối lộ” theo khoản 1 Điều 364 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Trường G phạm tội “Đưa hối lộ”.
Áp dụng khoản 1 điều 364, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, 38, của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lý Trường G mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Bị cáo không tranh luận, không kêu oan.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: các bị cáo đã ăn năng hối cải và mong được hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:
Khoảng 16 giờ ngày 12/9/2019 tại cửa khẩu quốc tế H,- thuộc ấp T, xã L, huyện L Bình Phước, bị cáo dùng số tiền 1.500USD đưa cho anh Hoàng H là cán bộ thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện L để được anh H cho qua chuyện bị cáo có sử dụng ma túy và không xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.Với việc dùng tài sản của mình mà cụ thể trong trường hợp này là ngoại tệ bị cáo đưa cho người đang thực hiện nhiệm vụ mục đích là để cho bị cáo không bị xử lý vi phạm của bị cáo đủ các yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ.
Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo về tội đưa hối lộ theo quy định tại khoản 1 điều 364 là có căn cứ.
[3] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực hành vi dân sự nên các bị cáo chịu trách nhiệm bởi hành vi của mình.
Hành vi của bị cáo, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn bình thường của cán bộ trong khi thực hiện nhiệm vụ, gây trở ngại trong công tác. bị cáo thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý. Do đó, cần có một hình phạt nghiêm đó là tù có thời hạn một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp được hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về vật chứng vụ án: ớ tiền 1500USD bị cáo dùng vào việc đưa hối lộ, đây là vật chứng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội có giá trị nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Đối với số tiến 10.577.000đ, 01 bóp da màu nâu,01 thể nhựa màu xanh có chữ mobifone (4G),01 thẻ nhựa màu đen, có chữ Exciter Sport, 04 tờ giấy màu trắng có ghi các số tự nhiên, 01 đồng hồ kim loại màu vàng, 01 dây đeo cổ màu đen xung quanh có các đoạn kim loại màu vàng, 01 vòng đeo tay chuỗi hạt có hình con tỳ hưu màu vàng là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án trả lại cho bị cáo.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Tường G phạm tội: “Đưa hối lộ”.
[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 364, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Lý Trường G 01 (một) năm tù.Thời gian tính tù từ ngày 12/9//2019 Tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày tính từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.
[3] Vật chứng vụ án: Áp dụng điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:
Tịch thu sung công quỹ nhà nước 1.500USD (Một ngàn năm trăm)
Trả cho bị cáo Lý Trường Giang: số tiến 10.577.000đ (Mười triệu, năm trăm bảy mươi bảy ngàn), 01 bóp da màu nâu, 01 thể nhựa màu xanh có chữ mobifone (4G), 01 thẻ nhựa màu đen có chữ Exciter Sport, 04 tờ giấy màu trắng có ghi các số tự nhiên, 01 đồng hồ kim loại màu vàng, 01 dây đeo cổ màu đen xung quanh có các đoạn kim loại màu vàng, 01 vòng đeo tay chuỗi hạt có hình con tỳ hưu màu vàng.
(Vật chứng được chuyển như biên bản về việc giao nhân vật chứng, tài sản số 0006692 ngày 14/01/2020 của chi cục thi hành án dân sự huyện L)
[4] Về án phí:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:
Bị cáo Lý Trường G phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án 05/2020/HSST ngày 16/01/2020 về tội đưa hối lộ
Số hiệu: | 05/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về