Bản án 05/2020/HSST ngày 13/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 05/2020/HSST NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

HÀ VĂN T (tên gọi khác: Không), sinh ngày12/10/1990 tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã R, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 08/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn T1 và bà Đỗ Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không (tuy nhiên tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2019/HSST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản); Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 03/12/2018 bị Công an xã Đông Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ-XPVPHV đến nay vẫn chưa thi hành việc nộp phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/12/2019 và bị cáo đang chấp hành án theo Quyết định thi hành án phạt tù số 41/2019/QĐ-CA ngày 23/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tại. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn T: Ông Hà Văn T2 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Ông La Văn M, sinh năm 1974.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà La Thị E, sinh năm 1969.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Nà V, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tố tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 14/11/2019, Hà Văn T khi đang ở nhà thì chuẩn bị 01 con dao bằng kim loại dài 39cm, dao có một lưỡi sắc, mũi dao cong, lưỡi dao chỗ rộng nhất là 4,7cm; 01 con dao bằng kim loại dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, rộng 05cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen dài 11cm; 01 chiếc bao tải dứa màu trắng xanh, trên thân bao tải có in nhiều dòng chữ; 01 chiếc túi nilon màu trắng đục rồi cho vào 01 chiếc ba lô được làm từ phần thân chiếc bao tải dứa có hai quai đeo rồi mang theo đi bộ lên khu vực đồi P thuộc thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn để tìm sâm cau. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đang tìm sâm cau thì T phát hiện khu vực vườn rừng của gia đình ông La Văn M, trú tại thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn có trồng nhiều cây quế và không có ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản (bóc trộm vỏ cây quế) để mang bán. Sau đó T vứt bỏ số sâm cau tìm được trước đó rồi sử dụng dao bóc trộm vỏ của 10 cây quế, sau đó bó thành 01 bó cho vào chiếc ba lô rồi đi bộ về để mang bán số vỏ cây quế bóc trộm được. Khi đang đi bộ theo đường rừng về thì bị ông La Văn M phát hiện, giữ lại (do trước đó ông M được bà La Thị E trú cùng thôn gọi điện thông báo về việc bà phát hiện khu vực vườn rừng của ông bị kẻ gian bóc trộm vỏ cây quế) và sau đó ông M gọi điện thoại báo cho Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn đến lập biên bản sự việc, thu giữ toàn bộ số vỏ cây quế và ban giao cho Công an huyện Chợ Đồn điều tra, xử lý.

Tại biên bản cân trọng lượng hồi 15 giờ 10 phút ngày 14/11/2019 xác định: Tổng trọng lượng bó vỏ cây quế mà Hà Văn T lấy trộm được là 20kg (hai mươi kilôgam).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 30/HĐ-ĐGTS ngày 27/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chợ Đồn kết luận: “Giá trị của 20kg (hai mươi kilôgam) vỏ cây quế, loại vỏ còn tươi tại thời điểm ngày 14/11/2019 có giá 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng)”.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKSCĐ ngày 20/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hà Văn T về tội: "Trộm cắp tài sản" theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp với bản án hình sự sơ thẩm số 44/2019/HSST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản";

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không đề nghị xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại dài 39cm, dao có một lưỡi sắc, mũi dao cong, lưỡi dao chỗ rộng nhất là 4,7cm; 01 con dao bằng kim loại dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, rộng 05cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen dài 11cm, dao có một lưỡi sắc; 01 chiếc bao tải dứa màu trắng xanh, trên thân bao tải có in nhiều dòng chữ; 01 chiếc túi nilon màu trắng đục; 01 chiếc ba lô được làm từ phần thân chiếc bao tải dứa có hai quai đeo.

- Về án phí: Bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án xin được hưởng mức án thấp nhất.

Tại bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo cho rằng việc truy tố, xét xử đối với bị cáo về tội danh như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa vắng mặt người bào chữa, bị hại và người làm chứng bị cáo không đề nghị hoãn phiên tòa, Kiểm sát có ý kiến việc vắng mặt người bào chữa, bị hại và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Ngày 03/12/2018, Hà Văn T bị Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ- XPVPHV ngày 03/12/2018 đến nay vẫn chưa thi hành việc nộp phạt.

Khong 12 giờ ngày 14/11/2019, Hà Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 20kg (hai mươi kilôgam) vỏ cây quế tươi có giá trị 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng) của gia đình ông La Văn M, ở thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn sau đó bị phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật.

Mặc dù tài sản trộm cắp của Hà Văn T dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng). Tuy nhiên trước đó Hà Văn T đã bị Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản (chiếm đoạt tài sản). Đến ngày 14/11/2019 vẫn chưa thi hành việc nộp phạt và chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Do đó, hành vi trộm cắp tài sản vỏ cây quế của Hà Văn T khoảng 12 giờ ngày 14/11/2019 đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Điều 173 có nội dung quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người đủ nhận thức hiểu biết hành vi chiếm đoạt quyền sở hữu tài sản của người khác là vi phạm pháp luật,nhưng bị cáo muốn có tiền để tiêu sài cá nhân không phải lao động nên bị cáo cố ý thực hiện.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Mặc dù Hà Văn T đến thời điểm truy tố, xét xử đang chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 44/2019/HSST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", tuy nhiên do hành vi phạm tội lần này của Hà Văn T được thực hiện trước khi bị xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật nên Hà Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự và được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đó là“Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ tài liệu xác minh của Cơ quan Cảnh sát điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy bị cáo lao động tự do, không có thu thập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật. Hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù, Hội đồng xét xử thấy hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là nằm trong khung của điều luật bị truy tố là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông La Văn M đã nhận lại số vỏ cây quế và có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng :

Đi với 20kg (hai mươi kilôgam) vỏ cây quế tươi. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu là ông La Văn M.

Đi với 01 con dao bằng kim loại dài 39cm, dao có một lưỡi sắc, mũi dao cong, lưỡi dao chỗ rộng nhất là 4,7cm; 01 con dao bằng kim loại dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, rộng 05cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen dài 11cm, dao có một lưỡi sắc; 01 chiếc bao tải dứa màu trắng xanh, trên thân bao tải có in nhiều dòng chữ; 01 chiếc túi nilon màu trắng đục; 01 chiếc ba lô được làm từ phần thân chiếc bao tải dứa có hai quai đeo là công cụ phạm tội tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo có đơn xin miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm và căn cứ vào quy định của pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

* Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Hà Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 44/2019/HSST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt Hà Văn T 12 (mười hai) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Buộc Hà Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 27 (hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 12/12/2019.

- Trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu không xem xét giải quyết.

- Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu 01 con dao bằng kim loại dài 39cm, dao có một lưỡi sắc, mũi dao cong, lưỡi dao chỗ rộng nhất là 4,7cm; 01 con dao bằng kim loại dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, rộng 05cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen dài 11cm, dao có một lưỡi sắc; 01 chiếc bao tải dứa màu trắng xanh, trên thân bao tải có in nhiều dòng chữ; 01 chiếc túi nilon màu trắng đục; 01 chiếc ba lô được làm từ phần thân chiếc bao tải dứa có hai quai đeo.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Chợ Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Đồn ngày 03 tháng 02 năm 2020)

Án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án và đơn xin miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm của bị cáo. Bị cáo được miễn nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Xử án công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2020/HSST ngày 13/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;