Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TNH BẮC NINH

BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 22/4/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 197/2019/TLST- HNGĐ, ngày 19/12/2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST - DS ngày 27/3/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1989. Có mặt

Bị đơn: Chị Triệu Thị X, sinh năm 1992. Vắng mặt Cùng HKTT: Thiểm Xuyên, Thụy Hòa, Yên Phong, Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn - Anh Đ trình bày: Anh Nguyễn Văn Đ và chị Triệu Thị X kết hôn vào ngày 16/11/2012 trên cơ sở tự nguyện tìm hiều và đăng ký kết hôn tại UBND xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Cưới xong, vợ chồng chung sống và làm ăn tại thôn Thiểm Xuyên, xã Thụy Hòa cùng gia đình anh Đ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị X có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác. Anh Đ không biết cụ thể là ai, nhưng khi hỏi thì chị X có nhận là đúng. Sau đó, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xa lánh nhau, cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung, không quan tâm đến nhau. Tuy sống chung một nhà nhưng không còn tình cảm với nhau. Cuối năm 2018, chị X bỏ nhà đi theo người đàn ông khác, để lại con chung cho anh Đ nuôi dưỡng. Từ đó vợ chồng sống ly thân, thỉnh thoảng chị X vẫn liên hệ với anh Đ qua điện thoại hoặc về thăm con, nhưng chị X không nói chị X đang ở đâu, làm gì. Hiện chị X vẫn đang có tên trong Sổ hộ khẩu của gia đình anh Đ tại thôn Thiểm Xuyên, xã Thụy Hòa, chưa làm thủ tục tách khẩu.

Nay anh Đ xác định vợ chồng không còn tình cảm và xin ly hôn chị X.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Văn Minh Quân, sinh ngày 14/10/2013. Ly hôn, anh Đ xin nuôi dưỡng cháu, không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - Chị X vắng mặt tại địa phương. Tòa án đã về địa phương để làm việc nhưng không gặp được chị X do đó không lấy được lời khai của chị X. Qua xác minh cho thấy, chị X vẫn là thành viên trong Hộ của gia đình anh Nguyễn Văn Đ. Từ năm 2018, chị X bỏ đi, không thông báo cho địa phương và gia đình biết chị X đi đâu. Hiện chị X chưa làm thủ tục tách khẩu, địa phương cũng không biết hiện chị X đi đâu, làm gì.

Tại phiên tòa hôm nay: Anh Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung.

Kết thúc phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà đã phát biểu về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định, riêng bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 28, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự , chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Văn Đ. Cho anh Đ được ly hôn chị Triệu Thị X. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Minh Quân, sinh ngày 14/10/2013 cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra. Về tài sản chung, công nợ và trích chia công sức: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Anh Nguyễn Văn Đ và chị Triệu Thị X kết hôn vào ngày 16/11/2012, có tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Việc kết hôn của anh Đ và chị X đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn theo qui định của pháp luật nên được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Lời khai của anh Đ thể hiện do chị X có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi cọ, xa lánh, không quan tâm đến nhau. Cuối năm 2018, chị X bỏ đi để lại con chung cho anh Đ nuôi dưỡng, thỉnh thoảng mới về thăm con. Từ đó, vợ chồng sống ly thân. Tình cảm vợ chồng không còn, hai bên vẫn bỏ mặc cho cuộc sống của vợ chồng diễn ra, không ai quan tâm đến ai.

Qua xác minh tại địa phương cho thấy, chị X vẫn là thành viên trong Hộ của gia đình anh Nguyễn Văn Đ. Từ năm 2018, chị X bỏ đi, không thông báo cho địa phương và gia đình biết chị X đi đâu. Hiện chị X chưa làm thủ tục tách khẩu, địa phương cũng không biết chị X đi đâu, làm gì. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo thủ tục chung nhưng chị X vẫn vắng mặt tại Tòa án. Như vậy, coi như chị X đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị X là đúng quy định pháp luật.

Xét mâu thuẫn của vợ chồng giữa anh Đ - chị X đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân, do vậy anh Đ làm đơn xin ly hôn chị X là có căn cứ và được chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Văn Minh Q, sinh ngày 14/10/2013. Ly hôn, anh Đ xin nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, sau khi chị X bỏ đi, anh Đ là người trực tiếp nuôi con đến nay, ngoài ra, anh Đ có công việc ổn định, thu nhập và các điều kiện khác đảm bảo cho việc nuôi con, do vậy cần tiếp tục giao con cho anh Đ nuôi dưỡng là phù hợp. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra do anh Đ không yêu cầu.

Các quan hệ khác phát sinh từ quan hệ hôn nhân giữa anh Đ và chị X, Hội đồng xét xử không xem xét do đương sự không yêu cầu.

Về án phí: Anh Đ phải chịu án phí LHST.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 28, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Văn Đ. Cho anh Nguyễn Văn Đ được ly hôn chị Triệu Thị X.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn Đ tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn Minh Q, sinh ngày 14/10/2013. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công nợ và các quan hệ khác phát sinh từ quan hệ hôn nhân giữa anh Đ, chị X do đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận anh Đ đã nộp đủ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0001292 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:05/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;