TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA ANH Đ, CHỊ P
Ngày 20 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 344/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Đinh Công Đ, sinh năm 1984
Nơi cư trú: Thôn G, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1983
ĐKHKTT: Thôn G, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình
Nơi cư trú: Thôn Y, xã T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa
(Tại phiên tòa có mặt anh Đ, chị P có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/12/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là anh Đinh Công Đ trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị P tự nguyện tìm hiểu, được Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn số 17/2014 ngày 10/02/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hai năm thì mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp và một phần do không có con chung dẫn đến cuộc sống không có hạnh phúc. Từ năm 2016 đến nay, chị P đã về quê ở tỉnh Thanh Hóa sinh sống, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, anh xin được ly hôn chị P.
Anh Đ khai vợ chồng không có con chung; không có tài sản chung, không có nợ chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là chị Nguyễn Thị P: Chị P có đơn lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là nơi giải quyết vụ án và xin giải quyết vắng mặt. Trong Đơn xin giải quyết vắng mặt, chị P trình bày: Về thời gian, hoàn cảnh kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống như anh Đ đã trình bày trên. Chị khai, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên cuộc sống vợ chồng không hòa hợp; từ tháng 8/2016, chị đã về quê bố mẹ đẻ ở tỉnh Thanh Hóa sinh sống cho đến nay. Nay anh Đ xin ly hôn, chị xác định vợ chồng không còn tình cảm, chị nhất trí ly hôn theo yêu cầu của anh Đ; chị xác nhận vợ chồng không có con chung, không có tài sản và nợ chung. Chị từ chối tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và xin được vắng mặt tại các phiên tố tụng cũng như phiên tòa xét xử, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt chị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định
[1] Về tố tụng: Anh Đinh Công Đ cư trú tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình khởi kiện xin ly hôn chị Nguyễn Thị P có nơi cư trú tại Thôn Y, xã T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa, chị P đã có đơn lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là nơi giải quyết vụ án, căn cứ các Điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; bị đơn là chị Nguyễn Thị P có đơn xin giải quyết vắng mặt, căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn số 17/2014 ngày 10/02/2014 là hôn nhân hợp pháp. Anh Đ và chị P đều xác nhận trong cuộc sống chung của vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hòa hợp dẫn đến cuộc sống không có hạnh phúc; anh chị đã tự giải tán mối quan hệ hôn nhân bằng việc chị P bỏ về quê ở tỉnh Thanh Hóa sinh sống từ tháng 8/2016 cho đến nay, anh Đ không tìm, vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Nay anh Đ xin ly hôn, chị P cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, nhất trí yêu cầu xin ly hôn của anh Đ và có đơn xin giải quyết vắng mặt, điều đó cho thấy quan hệ hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đ, xử cho anh Đ được ly hôn chị P là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P đều khai không có con chung.
Về chia tài sản chung: Anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P đều khai vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không phải giải quyết.
[3] Về án phí: Anh Đinh Công Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4] Về quyền kháng cáo: Anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 227, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho anh Đinh Công Đ được ly hôn chị Nguyễn Thị P.
2. Về nuôi con chung: Anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P không có con chung.
3. Về chia tài sản: Anh Đinh Công Đ và chị Nguyễn Thị P không có tài sản chung.
3. Về án phí: Anh Đinh Công Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Đ đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004235 ngày 13 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Anh Đinh Công Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Nguyễn Thị P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 20/01/2020 về tranh chấp ly hôn giữa anh Đ, chị P
Số hiệu: | 05/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/01/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về