Bản án 05/2020/DS-ST ngày 02/06/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 05/2020/DS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2020/TLST-DS ngày 11 tháng 02 năm 2020, về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền), theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2020/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần B;

Địa chỉ trụ sở chính: Tòa nhà C, đường T, phường C, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Ngọc A; địa chỉ làm việc: Quốc lộ A, ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Hậu Giang; là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Theo Văn bản ủy quyền số 10/2020/QĐ- L.HG ngày 06 tháng 01 năm 2020). (có mặt)

2. Bị đơn: Bà Phan Thị T;

Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07-02-2020 của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần B và quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, ông Dương Ngọc A, là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 30-01-2018, Ngân hàng Thương mại cổ phần B - Phòng giao dịch T thuộc Chi nhánh Hậu Giang (gọi tắt là Ngân hàng) với bà Phan Thị T có ký Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005. Theo hợp đồng, Ngân hàng cho bà T vay số tiền 240.000.000 đồng, mục đích là mua sắm trang thiết bị, nội thất gia đình, thỏa thuận lãi suất vay trong hạn là 11%/năm, áp dụng cố định từ ngày 31-01-2018 đến hết ngày 31-01-2019, sau ngày 30-01-2019 áp dụng lãi suất theo lãi suất xếp hạng tín dụng của LBank tại thời điểm điều chỉnh và áp dụng lãi suất theo phương thức định kỳ thay đổi trong thời hạn vay, trong đó lãi suất được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, lãi suất nợ lãi chậm trả là 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, thời hạn vay là 60 tháng, kể từ ngày 30-01-2018 đến ngày 30-01-2023, không thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản; kỳ hạn trả nợ gốc là vào ngày 25 hàng tháng, trả 60 kỳ, mỗi kỳ trả 4.000.000 đồng, kỳ trả gốc đầu tiên vào ngày 25-02- 2018, kỳ hạn trả lãi là trả hàng tháng cùng kỳ trả nợ gốc.

Sau khi vay, bà T đã trả cho Ngân hàng được tổng cộng 122.998.147 đồng (trong đó gốc 80.000.000 đồng, lãi 42.998.147 đồng). Đến ngày 25-10-2019, bà T ngưng trả cho đến nay. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, nhưng bà T vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và đã chuyển sang nợ quá hạn.

Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T phải thanh toán khoản nợ còn thiếu tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02-6-2020) bao gồm tiền vốn gốc 160.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn 18.606.949 đồng, tiền lãi quá hạn 1.378.009 đồng, tổng cộng 179.984.957 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn phát sinh trên số tiền vốn gốc, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết nợ.

Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện gồm: Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005 ngày 30-01-2018 (bản chứng thực); Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ ngày 30-01-2018 (bản photo); Biên bản làm việc ngày 02-12-2019 giữa đại diện Ngân hàng B với bà Phan Thị T (bản photo); Thông báo nợ đến hạn không đề ngày tháng năm của Ngân hàng B, gửi cho bà Phan Thị T (bản photo); Thông báo nợ quá hạn đề ngày 29-10-2019 của Ngân hàng B, gửi cho bà Phan Thị T và Phòng Giáo dục và đào tạo huyện M (bản photo); Thông báo chi tiết gốc, lãi vay của Ngân hàng B - Phòng giao dịch T Chi nhánh Hậu Giang (bản chính).

Đối với bị đơn bà Phan Thị T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho bà biết, nhưng bà không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần B. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ bà T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải 02 lần, nhưng bà vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó đã thông báo cho bà biết kết quả phiên họp. Đồng thời, Tòa án cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bà cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Dương Ngọc A đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, còn bị đơn bà Phan Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng đều vắng mặt không phải vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, là không thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng Thương mại cổ phần B cung cấp, giao nộp thì việc khởi kiện của Ngân hàng đối với bà T là có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là bà Phan Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng đều vắng mặt. Việc bà T vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử được quyền tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà T.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử nhận thấy, Ngân hàng Thương mại cổ phần B (gọi tắt là Ngân hàng) ký Hợp đồng tín dụng, cho bà T vay tiền với mục đích là mua sắm trang thiết bị, nội thất gia đình. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà T trả nợ không đúng kỳ hạn như thỏa thuận nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà trả tiền vốn vay và tiền lãi còn thiếu. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền).

[3] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa nguyên đơn Ngân hàng với bị đơn bà T là tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền) theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và bị đơn có địa chỉ cư trú ở ấp M, xã M, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

 [4] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, về việc yêu cầu bà T trả tiền vay còn thiếu tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02-6-2020) bao gồm tiền vốn gốc 160.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn 18.606.949 đồng, tiền lãi quá hạn 1.378.009 đồng, tổng cộng 179.984.957 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn phát sinh trên số tiền vốn gốc kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (tức ngày 03-6-2020) cho đến khi trả hết nợ, Hội đồng xét xử thấy: Theo Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005 ngày 30-01-2018 thì bà T nhận tiền vay của Ngân hàng là 240.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất vay trong hạn là 11%/năm, áp dụng cố định từ ngày 31-01-2018 đến hết ngày 31-01-2019, sau ngày 30-01- 2019 áp dụng lãi suất theo lãi suất xếp hạng tín dụng của LBank tại thời điểm điều chỉnh và áp dụng lãi suất theo phương thức định kỳ thay đổi trong thời hạn vay, trong đó lãi suất được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, lãi suất nợ lãi chậm trả là 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, thời hạn vay là 60 tháng, kể từ ngày 30-01-2018 đến ngày 30-01- 2023, không thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản; kỳ hạn trả nợ gốc là vào ngày 25 hàng tháng, trả 60 kỳ, mỗi kỳ trả 4.000.000 đồng, kỳ trả gốc đầu tiên vào ngày 25-02-2018, kỳ hạn trả lãi là trả hàng tháng cùng kỳ trả nợ gốc. Sau khi vay, bà T không trả tiền vốn và lãi đầy đủ, đúng hạn như đã thỏa thuận, chỉ trả được 122.998.147 đồng (trong đó gốc 80.000.000 đồng, lãi 42.998.147 đồng) và đến nay khoản nợ vay này đã chuyển sang nợ quá hạn.

[5] Theo Án lệ số 08/2016/AL về giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng, tổ chức tín dụng với khách hàng vay, được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16-5-2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay”.

[6] Hội đồng xét xử nhận thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT- NHNN ngày 14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-02-2005; Điều 7, khoản 2 Điều 8, Điều 10, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm và theo Án lệ số 08/2016/AL, có đủ cơ sở để buộc bà T phải trả nợ cho Ngân hàng tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02-6-2020) gồm tiền nợ gốc chưa thanh toán là 160.000.000 đồng; tiền lãi trên nợ gốc trong hạn là 18.606.949 đồng; tiền lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán là 1.378.009 đồng; tổng cộng là 179.984.957 đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (tức ngày 03-6-2020), bà T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005 ngày 30-01-2018 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc trên. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng này, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà T phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[7] Như vậy, các yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ.

[8] Về án phí: Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định: “Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận”. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận toàn bộ nên bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 179.984.957 đồng x 5% = 8.999.247,85 đồng, làm tròn số là 8.999.247 đồng, còn Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4- 2010 của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03- 02-2005; Điều 7, khoản 2 Điều 8, Điều 10, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Án lệ số 08/2016/AL được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10- 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần B. Buộc bà Phan Thị T trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần B, tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02-6-2020), bao gồm các khoản sau đây:

- Nợ gốc: 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng);

- Tiền lãi trong hạn: 18.606.949 đồng (Mười tám triệu sáu trăm lẻ sáu nghìn chín trăm bốn mươi chín đồng);

- Tiền lãi quá hạn: 1.378.009 đồng (Một triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn không trăm lẻ chín đồng).

Tổng cộng là 179.984.957 đồng (Một trăm bảy mươi chín triệu chín trăm tám mươi bốn nghìn chín trăm năm mươi bảy đồng).

2. Kể từ ngày tiếp theo của của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 03-6-2020), bà Phan Thị T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005 ngày 30-01-2018, cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng số HDTD803201804005 ngày 30-01-2018, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Thương mại cổ phần B, thì lãi suất mà bà Phan Thị T phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần B.

3. Án phí:

- Bà Phan Thị T phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 8.999.247 đồng (Tám triệu chín trăm chín mươi chín nghìn hai trăm bốn mươi bảy đồng).

- Ngân hàng Thương mại cổ phần B được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.159.000 đồng (Bốn triệu một trăm năm mươi chín nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000425 ngày 07 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2020/DS-ST ngày 02/06/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:05/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;