Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2019/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 111/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị P; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T; nơi cư trú cuối cùng: Đường T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng, bị tuyên bố mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 19/2018/QĐST-DS ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/12/2018, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 10/3/2009 tại Uỷ ban nhân dân phường Lương Khánh Thiện, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị không hợp nhau về tính cách, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát, cãi nhau. Hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng. Do mâu thuẫn vợ chồng nên anh Nguyễn Văn T đã bỏ nhà ở đường T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng. Anh T đi đâu, làm gì, chị P không biết. Gia đình và chị P đã tìm kiếm anh T ở nhiều nơi, bằng nhiều hình thức nhưng đến nay, anh T không trở về địa phương lần nào và không có tin tức gì. Anh T đã bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền tuyên bố mất tích. Đến nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị P đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T có hai con chung là Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2002 và Nguyễn Quốc A, sinh ngày 12 tháng 6 năm 2006. Từ ngày anh T bỏ nhà đi đến nay, một mình chị P nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung. Chị P đề nghị Tòa án giao hai con cho chị trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Lê Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn T bị tuyên bố mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 19/2018/QĐST-DS ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 147; điểm a khoản 1 Điều 203; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử xử: Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị P được ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Về việc nuôi con: Giao con Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2002 và Nguyễn Quốc A, sinh ngày 12 tháng 6 năm 2006 cho chị Lê Thị P trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung: Chị Lê Thị P không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị Lê Thị P phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo: Đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Văn T có nơi cư trú cuối cùng tại đường T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án:

[2] Ngày 03 tháng 01 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 19 tháng 02 năm 2019, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của đương sự:

[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị P vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt lần thứ hai. Vì vậy, Tòa án xét xử vắng mặt chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T theo đúng quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[4] Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T được xác lập từ ngày 10/3/2009 là hoàn toàn tự nguyện. Anh chị đăng ký kết hôn vào ngày 10/3/2009 tại Uỷ ban nhân dân phường Lương Khánh Thiện, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Vì vậy hôn nhân giữa chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Căn cứ vào lời khai của chị Lê Thị P, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị không hợp nhau về tính cách, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát, cãi nhau. Hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng. Do mâu thuẫn vợ chồng nên anh Nguyễn Văn T đã bỏ nhà đi đường T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng. Anh T đi đâu, làm gì, chị P không biết. Gia đình và chị P đã tìm kiếm anh T ở nhiều nơi, bằng nhiều hình thức nhưng đến nay, anh T không trở về địa phương lần nào và không có tin tức gì. Xét mâu thuẫn giữa chị P và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác, anh Nguyễn Văn T đã bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tuyên bố mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 19/2018/QĐST-DS ngày 27/11/2018. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị P.

+ Về việc nuôi con:

[6] Chị Lê Thị P và anh Nguyễn Văn T có hai con chung là Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2002 và Nguyễn Quốc A, sinh ngày 12 tháng 6 năm 2006. Ly hôn, chị P đề nghị Tòa án giao hai con Nguyễn Thị Thùy D, Nguyễn Quốc A cho chị P trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ ngày anh T bỏ đi đến nay đã hơn 02 năm, chị P một mình chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con. Mặt khác, hai con có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Lê Thị P. Vì vậy, cần áp dụng các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao hai con Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2002 và Nguyễn Quốc A, sinh ngày 12 tháng 6 năm 2006 cho chị Lê Thị P trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Lê Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

+ Về tài sản chung:

[7] Chị Lê Thị P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

[8] Chị Lê Thị P phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[9] Chị Lê Thị P, anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 147; điểm a khoản 1 Điều 203; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;  

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

- Về việc nuôi con: Giao hai con Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2002 và Nguyễn Quốc A, sinh ngày 12 tháng 6 năm 2006 cho chị Lê Thị P trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Chị Lê Thị P phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Lê Thị P đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0015565 ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Lê Thị P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;