Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 04 tháng 7 năm 2019; Tại hội trường trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 08/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXX-ST ngày 15/3/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trương A; sinh năm: 1990 Địa chỉ: Thôn M, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị đơn: Ông Nguyễn T, sinh năm: 1983 Địa chỉ: Thôn M, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 24 tháng 01 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa của nguyên đơn bà Trương A trình bày: Bà và ông Nguyễn T có quen biết và tìm hiểu về nhau trong khoảng thời gian năm 2009 đến năm 2013 thì quyết định đi đến hôn nhân. Ông bà đăng ký kết hôn vào ngày 05 tháng 9 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã R huyện Đ. Sau khi kết hôn ông bà chung sống với nhau ở Bình Dương đến năm 2016 thì về sống tại xã R huyện Đ, ông bà có với nhau một người con chung là cháu Nguyễn D. Mặc dù ông bà sống với nhau tại nhà riêng nhưng đến ngày 26/11/2017 thì gia đình chồng bà đã đuổi bà và con bà ra khỏi nhà, từ đó đến nay bà sống ở nhà mẹ đẻ, ông T bà không còn chung sống với nhau nữa. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng là do ông T không có lập trường, nghe lời bố mẹ và hai vợ chồng không hợp nhau về tính cách, suy nghĩ, không thông cảm cho nhau dẫn đến vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng, tình cảm vợ chồng rạn nứt nghiêm trọng đến mức không thể hàn gắn được, đến tháng 01 năm 2019 ông bà đã đồng tình ly hôn. Nay bà thấy rằng còn tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà viết đơn yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn giữa bà và ông Nguyễn T.

Về con chung: Ông bà có với nhau 01 người con chung là cháu Nguyễn Dsinh ngày 15/4/2014, hiện nay cháu D đang ở cùng với mẹ, bà đang làm nghề thợ may với mức thu nhập ổn định 8.000.000 đồng/tháng. Nếu ly hôn bà có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc cháu D, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra bà không có yêu cầu gì thêm.

Ý kiến, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án của bị đơn Nguyễn T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông Nguyễn T nhiều lần nhưng ông T không chấp hành, không đến Tòa làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án.

Vụ án được Tòa án hòa giải nhưng không được.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký; Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật; Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho bà Trương A và ông Nguyễn T ly hôn. Về con chung: giao cháu Nguyễn D sinh ngày 15/4/2014 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, ông Nguyễn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn T được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần hai nhưng vẫn vắng mặt; Căn cứ Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà A và ông T qua thời gian tìm hiểu từ năm 2009 đến năm 2013 thì quyết định đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã R huyện Đ vào ngày 05/9/2013. Do đó, xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Tvà bà A là hợp pháp. Do cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn nên từ năm 2018 ông T và bà A đã không còn chung sống với nhau nữa. Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc sống vợ chồng ông T, bà A phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hòa giải được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trương A.

[3] Về con chung: Ông bà có với nhau 01 người con chung là cháu Nguyễn D sinh ngày 15/4/2014. Xét thấy bà A có nguyện vọng nuôi con chung, hiện nay bà đang làm nghề thợ may, có thu nhập ổn định 8.000.000đ/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cháu D phát triển tốt, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Do đó, cần giao con chung là cháu Nguyễn D cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Không có.

[5] Về nợ chung: Không có.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bà Ánh phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1, Điều 35; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Trương A và bị đơn ông Nguyễn T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn D sinh ngày 15/4/2014 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi việc cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Buộc nguyên đơn bà Trương A phải nộp số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào toàn bộ số tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0003721 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, bà A đã nộp đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo trình tự phúc thẩm, đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;