TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 05/2019/DS-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Trong ngày 09 tháng 9 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2019/TLST-DS ngày 06 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST-DS ngày 12/7/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐST-DS ngày 09/8/2019;Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2019/QĐST-DS ngày 26/8/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T (Tá), sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ 7, khu 5B, phường CTr, thành phố D tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do - Có mặt. Người đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ 9 khu 5A, phường CTr, thành phố D tỉnh Quàng Ninh.
Theo giấy ủy quyền sổ chứng thực 617 quyển số 1-UB/CT/HNGĐ của Ủy ban nhân dân phường Cẩm Trung thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh –có mặt.
2. Bị đơn: Chị Bùi Thi H, sinh năm 1967; Địa chỉ: Tổ 7, khu 5B, phường CTr, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do - vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Huy C, sinh năm 1979; Địa chỉ: Tổ 9, khu 5, phường HT, thành phố C tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Điều tra viên- Đội điều tra tổng hợp Công an thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại hồ sơ vụ án, Nguyên đơn chị Vũ Thị T (Tá) đều trình bày: Chị và chị Bùi Thị H là hàng xóm và thân thiết với nhau. Nhưng từ khoảng vài năm gần đây chị nghi ngờ chị H có quan hệ ngoại tình với chồng chị là anh Nguyễn Văn T nên chị đã đến nhà, gặp chị H ngoài chợ hay ngoài đường chị đều nhắc nhở chị Hiền không được ngoại tình với chồng chị nữa. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/5/2018, khi chị đi mua ghế nhựa về chị nhìn thấy chị H ngồi ở quán nước cạnh nhà. Chị đã vào quán và nói với chị H “tốt hơn hết mày nên bỏ quan hệ với chồng tao đi” chị H đã nói: “Tao thích ngủ với ai là quyền của tao, chị H nói chị H bị ức chế vì nhiều lần chị có nói bóng gió đến chuyện này nên hôm nay chị H sẽ đánh nhau với chị”. Sau đó chị và chị H cãi chửi nhau. Chị vừa chửi vừa đi về phía chị H rồi đứng đối diện chéo phía bên tay phải của chị H và đứng sát cạnh bên phải bàn chị H đang ngồi. Chị H đứng dậy đối diện và chửi nhau với chị. Sau đó chị H cầm một số đồ dùng trong quán nước ném chị. Lúc này chị cắp ghế ở nách định giơ lên để đỡ nhưng chưa kịp thì chị H có hành vi dùng nồi đánh vào đầu làm chị bị ngã xuống đất và chảy máu, sau đó chị H đập vào bụng vào tay chị. Sự việc xảy ra đã được mọi người can ngăn và đưa chị đi cấp cứu, chữa trị và nằm viện tại Bệnh viện Đa khoa Cẩm Phả từ ngày 03/5/2018 đến ngày 10/5/2018 ra viện. Tổn hại sức khỏe của chị là 09%. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả không khởi tố vụ án và đã trả lời khiếu nại. Nay chị T (Tá) khởi kiện yêu cầu chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị các khoản như sau:
1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút. Số tiền này bao gồm các hóa đơn tiền thuốc, tiền 02 lần chụp: 2.147.000 đ+ 180.000đ + 1.525.000đ + 3.511.000 đ = 7.363.000 đ (Bảy triệu ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút là 2 tháng: Mức thu nhập bình quân một tháng là 9.000.000 đồng/ tháng. 9.000.000 đ x 2 tháng = 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng)
3.Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc: 10 ngày x 200.000 đồng = 2.000.000đ (Hai triệu đồng)
4. Chi phí phương tiện đi lại cứu chữa: 1.000.000đ (Một triệu đồng)
5. Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 50 tháng x 1.390.000đ = 69.500.000đ (Sáu mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Chị yêu cầu Tòa án buộc chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị tổng số tiền là: 7.363.000 đ + 18.000.000 đ + 2.000.000đ+ 1.000.000đ + 69.500.000đ = 97.863.000đ (Chín mươi bảy triệu tám trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
Tại đơn yêu cầu bồi thường và lời khai bổ sung ngày 26/5/2019 chị Vũ Thị T yêu cầu Tòa án buộc chị Bùi Thị H phải bồi thường theo quy định của pháp luật cho chị T gồm các khoản: Tổn thất về sức khỏe, tổn thất về tinh thần, tổn thất về thu nhập bị mất tổng số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
Sau đó chị T lại thay đổi quan điểm tại lời khai bổ sung ngày 09/7/2019 và giao nộp các tài liệu tại Tòa án vào ngày 11/7/2019. Chị Vũ Thị T yêu cầu Tòa án buộc chị Bùi Thị H phải bồi thường theo quy định của pháp luật cho chị T gồm:
1. Hóa đơn bán hàng ngày 11/5/2018 của Bệnh viện đa khoa Cẩm Phả với số tiền 2.624.368đ (Hai triệu sáu trăm hai bốn nghìn ba trăm sáu tám đồng)
2. Hóa đơn bán hàng ngày 16/5/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh với số tiền 3.511.000 đ (ba triệu lăm trăm mười một nghìn đồng);
3. Chi phí xe đi lại: 1.500.000 đ (một triệu lăm trăm nghìn đồng).
4. Tổn thất thu nhập do chị phải nghỉ mất 60 ngày, thu nhập là 300.000 đồng/ ngày 60 ngày x 300.000đ = 18.000.000 đ (mười tám triệu đồng);
5. Trong những ngày chị nằm viện không tự chăm sóc được mình mà phải có con chị là Nguyễn Thị O đã trực tiếp chăm sóc trong 15 ngày mỗi ngày thu nhập của chị O là 200.000 đồng/ ngày 15 ngày x 200.000 đồng =3.000.000 đ (ba triệu đồng)
6.Chi phí Giám định sức khỏe gồm:
- Hóa đơn bán hàng ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháo y tỉnh Quảng Ninh do người mua hàng là Điều tra viên Phạm Huy C ký với nội dung dịch vụ về phí giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị T sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B phường CTr, D, Quảng Ninh với số tiền là 535.000 đ (năm trăm ba mươi lăm nghìn đồng ).
- Hóa đơn bán hàng ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh do người mua hàng là bà Vũ Thị T ký với nội dung dịch vụ về phí cận lâm sàng phục vụ giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị T sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B, phường CTr, D, Quảng Ninh với số tiền là 2.700.000 đ (hai triệu bảy trăm nghìn đồng).
- Phiếu thu ngày 14/6/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh do người nộp tiền là điều tra viên Phạm Huy C lý do nôp: Bồi dưỡng giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị T, sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B phường CTr, D, Quảng Ninh với số tiền 1.360.000 đ (một triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).
Tổng số tiền chi phí giám định sức khỏe là 3.595.000 đ (ba triệu lăm trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
7.Tổn thất tinh thần và sức khỏe bị mất: 30 tháng x 1.000.000 đ/ tháng = 30.000.000 đ (ba mươi triệu đồng)
Tổng số tiền chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị là 62.730.368 đồng (sáu mươi hai triệu bảy trăm ba mươi nghìn ba trăm sáu tám đồng).
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thị O thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện với nội dung yêu cầu chị H phải bồi thường về các khoản:
- Mất thu nhập của người chăm sóc là 60 ngày. Mức thu nhập của người chăm sóc là 200.000 đồng/ ngày: 60 ngày x 200.000 đ/ ngày =12.000.000 đ (mười hai triệu đồng).
- Bồi thường về tổn thất tinh thần với mức 06 tháng, mỗi tháng là 1.000.000 đồng: 6 tháng x 1.000.000đ/ tháng = 6.000.000 đ (sáu triệu đồng)
Những yêu cầu khác người đại diện theo ủy quyền vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị Vũ Thị T (tức Tá) tổng số tiền là 59.000.000đ (Năm mươi chín triệu đồng).
* Bị đơn – Chị Bùi Thị H trình bày tại hồ sơ: Ngày 03/5/2018 chị đang ngồi nấu chè tại ngõ nhà chị thì chị T (tức Tá) từ đâu chạy đến túm tóc, đấm, đá, đánh chị. Lúc này do chị bị đau, mắt tối xầm không nhìn thấy phương hướng, hơn nữa để phòng vệ chị vớ lấy cái nồi đựng thạch giơ lên thì chị T lao đầu vào cái nồi chị đang cầm trên tay làm chị T phải đi viện và Công an thành phố Cẩm phả đã xử phạt hành chính đối với chị. Chị công nhận có sự việc chị gây thương tích cho chị Vũ Thị T làm chị T đã phải điều trị tại bệnh viện và bị thiệt hại 09% sức khỏe. Chị thừa nhận chị chưa bồi thường cho chị T. Nay chị T yêu cầu chị phải bồi thường cho chị T tổng số tiền là 97.863.000đ (Chín mươi bảy triệu tám trăm sáu mươi ba nghìn đồng). Sau đó chị T thay đổi mức bồi thường và yêu cầu chị phải bồi thường với số tiền 62.730.368 đồng (sáu mươi hai triệu bảy trăm ba mươi nghìn ba trăm sáu tám đồng) chị không chấp nhận vì thương tích của chị T chỉ xây sát ngoài ra không ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thời gian nằm viện ngắn ngày (từ ngày 03/5/2018 đến ngày 10/5/2018) và 02 ngày đi giám định (ngày 14, 16/5/2018). Khi ra viện chị T không nghỉ việc như chị T đã trình bày mà đã bán hàng ăn sáng tại nhà ngay. Chị chỉ bồi thường cho chị Vũ Thị T với tổng số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị H không thể hiện cụ thể số tiền chị bồi thường cho chị T mà có quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phạm Huy C tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại hồ sơ cũng như tại đơn xin xét xử vắng mặt với nội dung: Ngày 14/6/2018 anh là người đưa bà Vũ Thị Tá (tức T) đi giám định tại Trung tâm pháp y – Sở y tế Quảng Ninh theo Quyết định trưng cầu (yêu cầu) giám định pháp y số 264 ngày 12/6/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh đối với bà Vũ Thị T (tức Tá). Tại Trung tâm pháp y – Sở y tế Quảng Ninh anh là người trực tiếp nộp tổng số tiền là 1.895.000 đ (một triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn đồng) đã được thể hiện tại các tài liệu sau:
- 01 phiếu thu ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh lý do nộp tiền Bồi dưỡng giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị Tá, sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B, phường CTr, thành phố D với số tiền 1.360.000 đ(một triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).
- 01 Hóa đơn bán hàng số 0024193 ngày 14/6/2018 của Trung Tâm pháp y Tỉnh Quảng Ninh lý do nộp tiền dịch vụ phí giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị Tá sinh năm 1964, trú tại tổ 7, khu 5B, phường CTr, thành phố D với số tiền 535.000 đ (năm trăm ba mươi lăm nghìn đồng).
Anh khẳng định hai tài liệu trên do anh trực tiếp nộp tiền và ký tên không phải bà Vũ Thị Tá (T) nộp tiền và chi trả. Anh không yêu cầu ai phải thanh toán số tiền trên cho anh.
Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả có ý kiến cho rằng việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm trước khi nghị án thấy rằng Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ. Giao nhận tài liệu đúng theo trình tự pháp luật quy định; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án và các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận một phần và đề nghị Hội đồng xét xử quyết định buộc chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị Vũ Thị T theo quy định tại các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật dân sự năm 2015.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp của vụ án là ”Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả quy định tại Khoản 6, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 95 ngày 23/7/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả đã xác định: Ngày 03/5/2018, chị Bùi Thị H cầm nồi đập vào đầu chị Vũ Thị T (Tá) gây thương tích 09%. Hành vi trên không cấu thành tội phạm.
Căn cứ bệnh án ngoại khoa của Bệnh viện đa khoa khu vực Cẩm Phả, bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 280/2010/TgT ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y thuộc sở y tế Quảng Ninh và các hóa đơn, chứng từ do chị T cung cấp thì chị Bùi Thị H đã gây thiệt hại cho chị Vũ Thị T (Tá). Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chị Vũ Thị T đối chị Bùi Thị H là có căn cứ.
Do hai bên không thống nhất được mức bồi thường nên căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, việc bồi thường thiệt hại được tính như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ án và sau khi Tòa án đã ra quyết định xét xử, chị T đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ về việc điều trị thương tích do chị H gây ra và các chi phí đã liệt kê gồm: 01 Giấy ra viện ngày 10/5/2018; 01 Hóa đơn bán hàng số 0051606 ngày 11/5/2018 của Bệnh viện Đa khoa Cẩm Phả; 01Hóa đơn bán hàng số 0108707 ngày 16/5/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh; 01 Hóa đơn bán hàng số 0024196 ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh; 01Hóa đơn số 0024193 ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh và 01 phiếu thu ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra chị T còn nộp 01 phiếu chỉ định siêu âm; 01 phiếu chỉ định nhóm CT-SCANNER yêu cầu chụp CLVT sọ não không tiêm thuốc cản quang hồi 10 giờ 42 phút ngày 16/5/2018. Chị T không nộp hóa đơn mua thuốc mà chỉ nộp 04 đơn thuốc, không nộp hóa đơn thanh toán việc chi phí phương tiện cũng như những chứng từ hóa đơn chứng minh việc mất thu nhập của chị khi phải nghỉ việc để điều trị vết thương và những ngày nghỉ việc sau khi ra viện, không nộp chứng từ chứng minh về việc mất thu nhập của người chăm sóc. Chị T không yêu cầu chị H phải bồi thường số tiền chị T phải mua thuốc điều trị.
Căn cứ vào giấy vào ra viện, các tài liệu, hóa đơn do chị T nộp. Hội đồng xét xử chấp nhận những hóa đơn, tài liệu cũng như những khoản tiền sau:
- 01 Hóa đơn bán hàng số 002419 ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh với số tiền : 2.700.000 đ (hai triệu bảy trăm nghìn đồng)
- 01 Hóa đơn bán hàng số 0108707 ngày 16/5/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh với số tiền : 3.511.000 đ (ba triệu lăm trăm mười một nghìn đồng)
-01 Hóa đơn bán hàng số 0051606 ngày 11/5/2018 của Bệnh viện đa khoa Cẩm Phả với số tiền 2.624.368 đ (hai triệu sáu trăm hai mươi bốn nghìn ba trăm sáu tám đồng).
- Phần bồi thường về tổn thất tinh thần: Theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị O người đại diện theo ủy quyền và được Hội đồng xét xử chấp nhận là: 06 tháng x 1.000.000đ/ tháng = 6.000.000 đ (sáu triệu đồng).
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).
- Do chị T làm nghề lao động tự do (bán hàng ăn sáng một mình không thuê người phụ giúp). HĐXX căn cứ vào số ngày nằm viện, ngày đi giám định và mức thu nhập của người lao động tự do (bán hàng ăn sáng) khác cũng như ấn định thời gian mất thu nhập của chị T nên chấp nhận một phần yêu cầu của chị T với số thời gian, số tiền do bị mất thu nhập là 01 tháng x 6.000.000 đ/ tháng = 6.000.000đ (sáu triệu đồng)
-Tiền mất thu nhập của người chăm sóc: Hội đồng xét xử căn cứ số ngày chị T nằm viện và so sánh mức thu nhập của người lao động tự do khác với mức thu nhập 200.000 đồng/ ngày nên chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường là: 08 ngày x 200.000 đ = 1.600.000 đ (một triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Tiền chi phí phương tiện đi lại: Hội đồng xét xử chấp nhận một phần số tiền trên vì từ vị trí chị T đi cấp cứu đến bệnh viện đa khoa Cẩm Phả chưa đầy 02km nên Hội đồng xét xử chấp nhận số tiền chi phí phương tiện đi lại là 100.000đ (một trăm nghìn đồng).
Căn cứ vào lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng như các tài liệu quy định về chi phí giám định pháp y. Hội đồng xét xử không chấp nhận những hóa đơn tài liệu sau:
-01 Hóa đơn bán hàng số 0024193 ngày 14/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh do người mua hàng là Điều tra viên Phạm Huy C ký với nội dung dịch vụ về phí giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị Tá sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B phường CTr, D, Quảng Ninh với số tiền là 535.000 đ (năm trăm ba mươi lăm nghìn đồng).
- 01 Phiếu thu ngày 14/6/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh do người nộp tiền là điều tra viên Phạm Huy C lý do nôp: Bồi dưỡng giám định pháp y thương tích vụ Vũ Thị Tám, sinh năm 1964 trú tại tổ 7, khu 5B, phường CTr, D, Quảng Ninh với số tiền 1.360.000 đ (một triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa thì chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị Vũ Thị T tổng số tiền là: 23.035.368 đ (hai mươi ba triệu không trăm ba mươi lăm nghìn ba trăm sáu mươi tám đồng).
[3] Về án phí: Chị Vũ Thị T không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; Do yêu cầu của chị Vũ Thị T được chấp nhận một phần nên chị Bùi Thị H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Khoản 6 Điều 26, Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định về án phí, lệ phí
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị T đối với chị Bùi Thị H
2. Buộc chị Bùi Thị H phải bồi thường cho chị Vũ Thị T tổng số tiền là 23.035.368 đ (hai mươi ba triệu không trăm ba mươi lăm nghìn ba trăm sáu mươi tám đồng).
(Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật,chị Vũ Thị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị Bùi Thị H chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất quy định tại khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự).
3. Về án phí: Chị H phải nộp 1.151.768đ (một triệu một trăm lăm mươi mốt nghìn bảy trăm sáu mươi tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại chị Vũ Thị T số tiền 2.446.000 đồng (hai triệu bốn trăm bốn mươi sáu nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004339 ngày 28/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.
Căn cứ các Điều Điều 271;273 Bộ luật tố tụng dân sự. báo cho nguyên đơn biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 05/2019/DS-ST ngày 09/09/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Số hiệu: | 05/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về