TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 30/01/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP MA TÚY
Ngày 30 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/HSST, ngày 15 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2018/HSST- QĐ, ngày 19/01/2018, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày: 05/7/1970 tại: Diễn H, huyện Diễn C, Nghệ A; trú tại: Xóm Hồng T, xã Diễn H, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ A; nghề nghiệp: sản xuất nông nghiệp; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Thái Thị T và 03 đứa con; tiền sự : Không; tiền án: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/10/2017 cho đến ngày xét xử - có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 08 giờ ngày 02/10/2017, tại Cửa khẩu quốc tế Cha Lo, thuộc xã Dân Hoá, huyện M, tỉnh Quảng Bình, lực lượng bộ đội biên phòng kiểm tra Nguyễn Văn T nhập cảnh từ Lào về Việt Nam đã phát hiện trong túi sau bên phải quần dài mà Nguyễn Văn T đang mặc có 01 ví da màu nâu, bên trong ví da có 01 gói tinh thể màu trắng, Nguyễn Văn T nhận đó là ma tuý. Kiểm tra trong 02 túi quần dài của T đựng trong túi hành lý có 01 gói màu trắng đựng trong túi lỳ xì màu đỏ và 01 gói tinh thể màu trắng được để trong bao nilon màu xanh, Nguyễn Văn T thừa nhận đó là 02 gói ma tuý. Cả 03 gói ma tuý trên Thao khai nhận là mang từ Lào về Việt Nam mục đích để sử dụng cá nhân. Lực lượng bộ đội biên phòng đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T.
Tại Bản kết luận giám định số: 907/GĐ – PC45, ngày 03/10/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 01 gói tinh thể màu trắng kí hiệu M1 được gửi giám định là Methamphetamine có trọng lượng 1,277g; 01 gói tinh thể màu trắng đựng trong túi lỳ xì màu đỏ ký hiệu M2 được gửi giám định là Ketamine có trọng lượng 0,073g; 01 gói bột màu trắng được đựng trong túi nilon màu xanh ký hiệu M3 được gửi giám định là Methamphetamine có trọng lượng 0,422 g
Cáo trạng số 03/THQCT-KSĐT-MT ngày 16/01/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Bình quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” theo điểm e khoản 2 Điều 250, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 2, Điều 250; các điểm s, t, x khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 03 năm đến 04 năm tù. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại và bao gói sau giám định, trao trả cho bị cáo 01 ví da, 01 Chứng minh nhân dân, 01 hộ chiếu, 03 điện thoại di động.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi của bị cáo:
Vào lúc 08 giờ ngày 02/10/2017, tại Cửa khẩu quốc tế Cha Lo, thuộc xã Dân H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình, lực lượng bộ đội biên phòng bắt quả tang Nguyễn Văn T nhập cảnh từ Lào vào Việt Nam dấu trong người và hành lý 1,772g ma tuý (Bao gồm chất Methamphetamine có trọng lượng 1,699 g và chất Ketamine có trọng lượng là 0,073 g), Thao khai nhận là mang từ Lào về Việt Nam mục đích để sử dụng cá nhân.
Tại Bản kết luận giám định số: 907/GĐ – PC45, ngày 03/10/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 01 gói tinh thể màu trắng kí hiệu M1 được gửi giám định là Methamphetamine có trọng lượng 1,277g; 01 gói tinh thể màu trắng đựng trong túi lỳ xì màu đỏ ký hiệu M2 được gửi giám định là Ketamine có trọng lượng 0,073g; 01 gói bột màu trắng được đựng trong túi nilon màu xanh ký hiệu M3 được gửi giám định là Methamphetamine có trọng lượng 0,422 g. Chất Methamphetamine và Ketamine nằm trong danh mục các chất ma tuý quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ – CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính Phủ.
Như vậy đã đủ căn cứ khẳng định bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm đ khoản 2, Điều 194, Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại Điều 194, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy Định:
1. Người nào tàng trử, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thị bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì phạt tù từ bảy năm đến 15 năm: đ, Vận chuyển mua bán qua biên giới.
Tội phạm về ma túy là một trong những tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội , nó còn là loại tội phạm làm nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý của bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng về quản lý trật tự xã hội do vậy cần áp dụng một hình phạt nghiêm minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo tiến bộ, đồng thời góp phần răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; trước đó bị cáo đã tích cực giúp đỡ Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An bắt đối tượng Nguyễn Văn H, thu giữ trong cốp xe máy của Hạnh 15,074 g ma tuý, Hạnh đã bị truy tố theo pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An có công văn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, q khoản 1 điều 46, Bộ luật hình sự 1999; bố và mẹ của bị cáo là người có công được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, nên cần áp dụng khoản 2 điều 46, Bộ luật hình sự năm 1999; áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử dưới khung hình phạt, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Xét thấy cần tuyên phạt bị cáo 03 năm tù là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Về vật chứng vụ án: Vật chứng vụ án hiện đang được thu giữ là các mẫu ma tuý còn lại sau giám định và bao gói ma tuý là hàng cấm nên cần tịch thu tiêu huỷ; 01hộ chiếu, 01 giấy Chứng minh nhân dân, 01 ví da, 03 điện thoại di động là vật không liên quan trực tiếp đến hoạt động phạm tội của bị cáo nên cần trao trả lại cho bị cáo, theo quy định tại điều 106, Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000, đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà đều được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn T phạm tội: “ Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.
2. Hình phạt:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 194, Bộ luật hình sự năm 1999; các điểm p, q khoản 1, Điều 46; khoản 2 Điều 46; Điều 47, Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 ( Ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 02/10/2017.
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000, đồng ( Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, quyết định xử lý các vật chứng vụ án hiện đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh H (Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa CQĐT Công an huyện Minh Hoá với CCTHADS huyện Minh Hoá ngày 18/01/2018):
- Tịch thu tiêu huỷ:
+ 1,115g ( một phẩy một trăm mười lăm gam) Methampheta mine (Mẫu ký hiệu A1 số 907/PC45). Đã được niêm phong sau giám định.
+ 0,308g ( Không phẩy ba trăm linh tám gam) Methamphetamine (Ký hiệu A3 số 907/PC45). Đã được niêm phong sau giám định.
+Vỏ bao gói ( Đã được niêm phong sau giám định ký hiệu A2 số 907/PC45).
- Trao trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T:
+ 01 ( Một) ví da màu nâu.
+ 01 ( Một ) hộ chiếu số: C0498962 mang tên Nguyễn Văn T do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 25/5/2015.
+ 01 ( Một) Chứng minh nhân dân số: 186469742 mang tên Nguyễn Văn T, do Công an tỉnh Nghệ An cấp ngày 23/01/2007.
+ 01( Một) điện thoại di động hiệu SAM SUNG màu trắng, IML 1:352311076434492/01, số IML 2: 352312076434490/02, bên trong khe chứa sim có chứa một sim Viettel số 0986093868, máy đã qua sử dụng.
+ 01(Một) điện thoại di động hiệu INVENS màu vàng, IML 1: 356420080747165, số IML 2: 356420080747173, bên trong khe chứa sim có chứa một sim UNITEL số 008562091796999, máy đã qua sử dụng.
+ 01(Một) điện thoại di động hiệu VETUX – 003805, vỏ máy bằng kim loại màu trắng bạc, máy đã qua sử dụng.
5. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ( 30/01/2018), để đảm bảo thi hành án.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/01/2018), để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 05/2018/HSST ngày 30/01/2018 về tội vận chuyển trái phép ma túy
Số hiệu: | 05/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về