Bản án 05/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2017/TLST – HS ngày 28 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2018/QĐXXST – HS ngày 09 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn H, sinh năm 1994 tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ 5, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông;  trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tuấn K, sinh năm 1969 và bà Đỗ Thị S, sinh năm 1972; tiền sự: Ngày 12/5/2017 bị Công an thị xã Gia Nghĩa xử phạt hành chính số tiền 500.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính vào ngày 17/5/2017; bị bắt tạm giam ngày 16/8/2017, đang bị tạm giam – Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Đình T, sinh năm 1984 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố 5, thị trấn C, huyện D, tỉnh Đắk Nông.

2. Anh Lê Sỹ C, sinh năm 1978 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Đội 1 Nông trường E, huyện F, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 16/8/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’Lấp bắt quả tang tại phòng số 06 nhà nghỉ Bảo Nam ở thôn 7, xã G, huyện D đối tượng Phạm Tuấn H, Lê Sỹ C và Trần Đình T thu giữ trên bàn uống nước trong phòng: 01 gói nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá); 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar B219 màu trắng của Phạm Tuấn H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen của Lê Sỹ C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J5 của Trần Đình T.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’Lấp, Phạm Tuấn H, Lê Sỹ C, Trần Đình T khai nhận:

Bản thân Phạm Tuấn H là người sử dụng trái phép chất ma túy đá, nên Phạm Tuấn H nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng và bán lại cho người khác nhằm kiếm lời. Khoảng 12 giờ ngày 16/8/2017, Lê Sỹ C gọi điện cho Phạm Tuấn H hỏi mua 1 gốc 4 ma túy đá (là từ thường dùng của các đối tượng sử dụng ma túy) với số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn). Phạm Tuấn H đồng ý bán cho Lê Sỹ C và yêu cầu Lê Sỹ C gửi 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn) qua xe bus chạy tuyến thị trấn C đi thị xã B cho Phạm Tuấn H để Phạm Tuấn H đi mua ma túy. Lê Sỹ C đồng ý gửi tiền cho Phạm Tuấn H rồi rủ Trần Đình T đến thuê phòng số 06 nhà nghỉ Bảo Nam ở thôn 7, xã G, huyện D đợi Phạm Tuấn H mang ma túy đến để cùng sử dụng. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Phạm Tuấn H nhận được tiền và đi đến khu vực cầu Đăk Nông gặp một người phụ nữ tên N (hiện không xác định được nhân thân lai lịch) mua của N một gốc 4 ma túy đá với số tiền 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn). Sau khi có ma túy Phạm Tuấn H tiếp tục bắt xe bus đi xuống nhà nghỉ Bảo Nam để giao ma túy cho Lê Sỹ C. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Phạm Tuấn H đi đến phòng số 06 nhà nghỉ Bảo Nam gặp Lê Sỹ C. Vào phòng, Phạm Tuấn H để gói nilon chứa ma túy đá lên bàn uống nước trong phòng nghỉ. Lê Sỹ C chê ít và nói Trần Đình T lúc này đang ở trong nhà vệ sinh ra xem ma túy có đủ hay không. Trần Đình T đi ra và nói để đi ra mua nước uống rồi tính tiếp thì lúc này Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’Lấp vào bắt quả tang thu giữ số vật chứng như đã nêu ở trên.

Quá trình điều tra Phạm Tuấn H, Lê Sỹ C, Trần Đình T còn khai nhận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 11/8/2017, T gọi điện thoại cho Phạm Tuấn H hỏi mua 500.000 đồng (Năm trăm nghìn) ma túy đá. Phạm Tuấn H yêu cầu Trần Đình T chuyển tiền lên cho Phạm Tuấn H qua xe bus chạy tuyến D đi thị xã B. Sau khi nhận được tiền, Phạm Tuấn H đi đến khu vực cầu Đăk Nông mua ma túy đá của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch 01 gói ma túy với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn). Sau khi có ma túy Phạm Tuấn H bắt xe bus đi xuống phòng 203 nhà nghỉ Toàn Nga ở thôn 6, xã H, huyện D để giao ma túy cho Trần Đình T. Trên đường đi Phạm Tuấn H gặp một người bạn tên C1 (không xác định được nhân thân lai lịch, Phạm Tuấn H và C1 quen nhau do cùng sử dụng trái phép ma túy đá) nên rủ C1 cùng vào phòng 203 nhà nghỉ Toàn Nga. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Phạm Tuấn H và C1 đi đến phòng 203 nhà nghỉ Toàn Nga thì gặp Trần Đình T và Lê Sỹ C. Sau khi Phạm Tuấn H giao ma túy cho Trần Đình T thì Trần Đình T, Phạm Tuấn H, Lê Sỹ C và C1 đã cùng nhau sử dụng hết số ma túy trên.

Ngày 17/8/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’Lấp ra Quyết định trưng cầu giám định số 137, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông giám định các hạt tinh thể màu trắng đựng trong gói nilon thu giữ của Phạm Tuấn H có phải là ma tuý, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hay không? Loại chất ma túy, tiền chất gì? Trọng lượng?

Ngày 21/8/2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông có kết luận giám định số 57/PC54 kết luận như sau:

Tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy, là Methamphetamine. Trọng lượng tinh thể màu trắng là 0,5733 gam.

Mẫu vật được hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0,2423 gam.

Quá trình điều tra đã xác định được lần Phạm Tuấn H bán ma túy đá trái phép cho Trần Đình T vào ngày 11/8/2017 với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn), do số tiền ít nên Phạm Tuấn H không hưởng lợi ích vật chất gì nhưng Phạm Tuấn H được Trần Đình T cho sử dụng ma túy cùng không mất tiền và để tạo quan hệ lòng tin với Trần Đình T để lần sau Trần Đình T cần mua ma túy sẽ liên hệ với Phạm Tuấn H. Lần bán ma túy cho Lê Sỹ C vào ngày 16/8/2017, Phạm Tuấn H thu lợi số tiền 200.00 đồng (Hai trăm nghìn) và đã tiêu xài hết

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen của Lê Sỹ C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J5 của Trần Đình T quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Lê Sỹ C và Trần Đình T, do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại trên cho Lê Sỹ T và Trần Đình T.

Đối với 0,2423 gam ma túy đá được hoàn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar B219 màu trắng của Phạm Tuấn H Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’lấp đã nhập kho vật.

Tại bản cáo trạng số 04/Ctr-VKS ngày 27 tháng 12 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đăk R’Lấp để xét xử bị cáo Phạm Tuấn H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Tuấn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng và thừa nhận Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tuấn H từ 07 (Bảy) đến 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 16/8/2017).

Về vật chứng vụ án: Căn cứ các Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 0,2423 gam ma túy đá được hoàn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar B219 màu trắng liên quan đến hành vi phạm tội của Phạm Tuấn H.

Truy thu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) do Phạm Tuấn H phạm tội mà có.

Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 67 ngày 04/11/2017 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’lấp trả lại với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen cho Lê Sỹ C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J5 cho Trần Đình T.

Tại phiên toà bị cáo Phạm Tuấn H không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên và bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Tuấn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã công bố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 15 giờ ngày 16/8/2017 tại phòng số 06, nhà nghỉ Bảo Nam ở thôn 7, xã G, huyện D, tỉnh Đắk Nông, bị cáo Phạm Tuấn H đã có hành vi bán cho Lê Sỹ C 0,5733 gam ma túy là Methamphetamine với số tiền 1.800.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Ngoài ra, vào khoảng 15 giờ ngày 11/8/2017, tại phòng số 203, nhà nghỉ Toàn Nga ở thôn 6, xã H, huyện D, tỉnh Đắk Nông, Phạm Tuấn H còn bán ma túy đá cho Trần Đình T với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Do vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Phạm Tuấn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 194 của Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuôc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

b) Phạm tội nhiều lần;”

[2]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo biết được việc mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy là xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng tới sức khỏe, đem lại những hậu quả nghiêm trọng, bị pháp luật nghiêm cấm và xã hội lên án. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm thì mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[3]. Tình tiết định khung hình phạt: Do bị cáo đã bán hai lần ma túy cho các đối tượng Lê Sỹ C, Trần Đình T nên hành vi của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là phạm tội nhiều lần.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền sự, ngày 12/5/2017 bị cáo bị Công an thị xã Gia Nghĩa xử phạt hành chính số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mục đích bị cáo bán ma túy cũng để được sử dụng cùng; sau khi bị bắt bị cáo đã tự khai ra toàn bộ hành vi phạm tội của mình đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là thỏa đáng.

[6]. Về thu lợi bất chính: Đối với số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán trái phép chất ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,2423 gam ma túy đá được hoàn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar B219 màu trắng là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội còn giá trị sử dụng cần tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J5 là các vật chứng không dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Đắk R’Lấp quyết định xử lý vật chứng số 67 ngày 04/11/2017 trả lại cho Lê Sỹ C, Trần Đình T là các chủ sỡ hữu hợp pháp cần chấp nhận.

[8]. Về án phí:  Bị cáo Phạm Tuấn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với đối tượng tên N và một người đàn ông bán trái phép ma túy cho bị cáo Phạm Tuấn H, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Lê Sỹ C, Trần Đình T có hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk R’lấp đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Sỹ C và Trần Đình T tại Điều 21, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định nên không đề cập xử lý.

Đối với đối tượng tên C1 có hành vi sử dụng trái phép ma túy cùng Phạm Tuấn H, Trần Đình T, Lê Sỹ C ở phòng số 203 nhà nghỉ Toàn Nga vào ngày 11/8/2017, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch do đó không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn H 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù  tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 16/8/2017.

2. Về thu lợi bất chính: Áp dụng điều 41 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo Phạm Tuấn H phải nộp số tiền 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) sung công quỹ nhà nước.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 41 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,2423 gam ma túy đá được hoàn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar B219 màu trắng

(Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao, nhận vật chứn ngày 27-12-2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp và Chi cục Thi hành án huyện Đắk R’Lấp).

Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 67 ngày 04/11/2017 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’Lấp trả lại với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen cho Lê Sỹ C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J5 cho Trần Đình T.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Tuấn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;