Bản án 05/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội cố ý gây thương tích và chống người thi hành công vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SA THẦY, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 06/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ  

Ngày 06 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/HSST ngày 09/02/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/ QĐXXST-HS, ngày 23/3/2018 đối với các bị cáo :

1. Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1995, nơi sinh tại tỉnh Kon Tum.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 1, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum. Nghề nghiệp: Không ổn định; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn K (đã chết); mẹ: Ngô Thị K, sinh năm: 1962, hiện làm nông sinh sống tại Thôn 01 – xã S – huyện S. Gia đình có 06 anh em, bị can là con nhỏ nhất trong gia đình, chị lớn nhất sinh năm 1983.

Tiền án: 02. ( Ngày 14/01/2016 bị Tòa án nhân dân huyện S tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Ngày 21/01/2016 bị Tòa án nhân dân huyện S tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”).

Tiền sự: 03, cụ thể:

Ngày 05/02/2015 có hành vi gây thương tích cho anh Nguyễn Thành Đ và bị công an huyện S ra quyết định xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là 2.500.000đ nhưng đến nay vẫn chưa thi hành.

Ngày 06/03/2015 có hành vi ném bom xăng vào nhà anh Nguyễn Duy C, trưởng công an xã Sa Sơn và bị công an huyện S ra quyết định xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là 2.500.000đ nhưng đến nay vẫn chưa thi hành.

Ngày 15/09/2015 bị UBND xã S, huyện S áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với C là 06 tháng kể từ ngày 15/09/2015.

Nhân thân Từ tháng 01/2012 đến tháng 01/2014 bị Công an huyện S đưa vào Trường giáo dưỡng số 3 Đà Nẵng.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam kể từ ngày01/11/2017 cho  đến nay có mặt tại phiên tòa.

2.  Họ và tên: Phạm Văn T, tên gọi khác: không. Sinh ngày : 10/07/1996 tại Thanh Hóa.

HKTT: Thôn 05, xã Lộc Nam, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Chỗ ở hiện nay: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum.

Nghề nghiệp: Không ổn định; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Phạm Văn Th (đã chết); mẹ: Mai Thị C, sinh năm: 1962, hiện làm nông sinh sống tại Thôn Nh – xã S – huyện S. Bị can có 03 anh em (01 người đã chết), bị can là con nhỏ nhất trong gia đình, anh lớn nhất sinh năm 1990.

Tiền án: 01 cụ thể: Ngày 10/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện B – Tỉnh L tuyên phạt 21 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” “Trộm cắp tài sản”. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 03/11/2017 đến  ngày  31/01/2018  được thay thế biện pháp ngăn chặn“ bảo lĩnhcho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

A B, sinh năm 1999.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt). Vũ Đức Th, sinh năm 1980.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:Vũ Đức Th, sinh năm 1980.

 Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt). Đào Quang Th, sinh năm 1985.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

A K( Tên gọi khác: A N), sinh năm 1996.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

A D( Tên gọi khác: A J), sinh năm 1998.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

Mai Thị C, sinh năm 1965.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

- Người làm chứng: Đinh Xuân L, sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn 2, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Vắng mặt). Lê Duy Kh, sinh năm 1995.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt). Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt). A L, sinh năm 2003.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt).

Người đại diện hợp pháp của A L là ông M là bố của A L. Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Có mặt). Võ Đình Ch, sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h30 ngày 01/11/2017 sau khi uống rượu tại thôn 1, thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy thì các đối tượng gồm: Nguyễn Mạnh C, Phạm Văn T, Đinh Xuân L (tên gọi khác: Cụt) và Lê Duy Kh rủ nhau tới Trung tâm giáo dục cộng đồng tại thôn Nh, xã S, huyện S, tỉnh Kon Tum chơi. Kh và T đi xe mô tô của Kh xuống trước, C và L đi xe mô tô của L xuống sau, khi tới đoàn ca nhạc trò chơi dân gian Thanh Bổn thì C thấy một nhóm thanh niên người dân tộc thiểu số gồm có: A B, A D (A J), A K (A N), A L, A Đ cùng trú tại Thôn Nh, xã S đang cãi nhau với Kh. C thấy vậy lao vào đấm A L một cái vào mặt thì hai bên xảy ra xô xát. C liền rút trong túi quần phía sau bên phải ra một kéo kim loại có cán bằng nhựa đuổi theo và đâm vào đầu A D, A K, thấy A B đứng gần đó C liền dùng tay phải đâm từ trên xuống vào sau lưng A B gây thương tích. Cùng lúc đó, T dùng một con dao thái lan cán nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại, có đầu nhọn, rượt đuổi nhóm thanh niên người đồng bào trên khiến nhóm thanh niên này bỏ chạy. Tuy nhiên, T chưa gây thương tích cho ai thì bị lực lượng Công an xã S đang trực, tuần tra, kiểm soát đảm bảo anh ninh trật tự tại khu vực tổ chức biểu diễn ca nhạc, theo Kế hoạch số: 19/KH-CA ngày 25/10/2017 của Công an xã Sa Nh phát hiện và can ngăn, anh Vũ Đức Th Trưởng công an xã S thấy T đang cầm dao đuổi đánh nhóm thanh niên địa phương trên thì xông vào ôm ngang người T để ngăn cản thì bị T dùng dao đâm từ trên xuống trúng bả vai phải gây thương tích. Anh Th tiếp tục quật T xuống để khống chế nhưng T đã vung người và chạy thoát ra cổng  chính. Anh Th tiếp tục đuổi theo T đến cổng chính thì bị Nguyễn Mạnh C cầm kéo đâm nhưng anh Th đã tránh được. Lúc này, anh Th Phó trưởng Công an xã S xông vào bắt C thì C dùng kéo đâm nhưng anh Th đã tránh được, T thấy anh Th bắt C xông vào vật ngã anh Th, anh Th dùng gậy cao su đánh nhưng T tránh được. Sau đó, T bỏ chạy thoát khỏi hiện trường, còn Nguyễn Mạnh C bị lực lượng công an xã S khống chế và bắt quả tang. Ngày 03/11/2017 Phạm Văn T đã ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội và bị tạm giữ tại nhà tạm giữ Công an huyện S.

- Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 140, ngày 06/11/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: ông Vũ Đức Th, bị thương tích: vết thương vai bên phải+vết bầm tím mặt trong khuỷu tay bên trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là: 02%.

- Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số:139, ngày 07/11/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: A B, bị thương tích: vết thương mặt trong xương bả vai bên phải+ vết mổ đặt ống dẫn lưu màng phổi: 03%; tổn thương phế bào ở phân thùy 6.Tổn thương đông đặc ở phân thùy 9, 10. Tràn dịch, tràn khí màng phổi đã đặt Sonde dẫn lưu màng phổi phải: 26%.Tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là: 28%.

Tại Bản cáo trạng số 04/CT- VKS ngày 08/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “ Cố ý gây thương tích” Theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội“Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” Theo điểm a, k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự và tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu lời luận tội đối với các bị cáo Nguyễn Mạnh C và Phạm Văn T, giữ nguyên cáo trạng số 04/CT-VKS  ngày08/02/2018 và đề nghị HĐXX áp dụng:

Áp dụng khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C mức án từ 36 đến 40 tháng tù.

-Áp dụng khoản 1 Điều 257 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C mức án từ 12 đến 16 tháng tù.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 01/11/2017.

-Áp dụng khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p, b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T mức án từ 09 đến 12 tháng tù. 

Áp dụng khoản 1 Điều 257 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 ; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.  Xử phạt bị cáo Phạm Văn T mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Phạm Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ 90 ngày tạm giữ, tạm giam trước đó( Từ ngày 03/11/2017 đến ngày 31/01/2018).

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận tại phiên tòa về việc bị cáo Nguyễn Mạnh C tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho người bị hại A B số tiền 7.000.000( Bảy triệu)đồng. Bồi thường cho A K số tiền 1.500.000( Một triệu năm trăm ngàn) đồng và bồi thường cho A D số tiền 1.500.000(Một triệu năm trăm ngàn) đồng

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phì hình sự và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực  hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi cấu thành tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Khoảng 20h30 ngày 01/11/2017, tại gian hàng của đoàn ca nhạc trò chơi dân gian Thanh Bổn, tổ chức ở Thôn Nh, xã S, Nguyễn Mạnh C nhìn thấy bạn mình là Kh đang cãi nhau với nhóm A B, C đã có hành vi xông tới đấm vào mặt A L, sau đó dùng kéo mang theo trong người đuổi đánh nhóm A B. Thấy vậy, Phạm Văn T đứng gần đó cũng rút dao có sẵn trong người đuổi theo nhóm bạn của B. Quá trình đuổi theo A B, Nguyễn Mạnh C đã dùng tay phải cầm kéo đâm A B một nhát từ phía sau lưng gây thương tích ở phổi. Tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là: 28%. Ngoài ra, Cường còn đâm vào đầu A K và A D nhưng cả hai người này chỉ bị thương nhẹ.

Đối với T, trong khi đang đuổi theo nhóm bạn của B nhưng chưa gây thương tích cho ai thì bị anh Vũ Đức Th Trưởng công an xã Sa Nh đang trực, tuần tra, kiểm soát đảm bảo anh ninh trật tự tại khu vực tổ chức biểu diễn ca nhạc, theo Kế hoạch số: 19/KH-CA ngày 25/10/2017 của Công an xã Sa Nh phát hiện và can ngăn. AnhTh xông vào ôm ngang người T để ngăn cản thì bị T dùng dao đâm từ trên xuống trúng bả vai phải gây thương tích. Anh Th tiếp tục quật T xuống để khống chế nhưng T đã vung người và chạy thoát ra cổng chính. Anh Th đuổi theo T đến cổng chính thì bị C cầm kéo đâm nhưng anh Th tránh được. Lúc này, anh Th Phó trưởng Công an xã Sa Nh xông vào bắt C thì C dùng kéo đâm nhưng không trúng. Nhìn thấy anh Th bắt bạn mình, nên Tú xông vào vật ngã anh Th, mục đích ngăn cản, tạo cơ hội cho C chạy thoát,  sau đó, T bỏ chạy thoát khỏi hiện trường. Tuy nhiên,  C bị lực lượng công an xã Sa Nh khống chế và bắt quả tang. Anh Vũ Đức Th, bị thương vai bên phải + vết bầm tím mặt trong khuỷu tay bên trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là: 02%.

Mặc dù C và A B không hề có mâu thuẫn gì, C cũng chưa hiểu rõ việc bạn mình cãi nhau với nhóm bạn A B vì lý do gì nhưng C đã có hành vi xông vào đuổi đánh và dùng kéo gây thương tích cho A B nên được xem là có tính chất côn đồ và dùng hung khí nguy hiểm. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS, với tình tiết định khung  quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS.

Đối với bị cáo Phạm Văn T, mặc dù khi nhìn thấy bạn mình là C rút kéo đâm về phía nhóm bạn A B, T cũng rút dao đuổi theo nhóm bạn của B. Tuy nhiên, trước đó cũng như tại thời điểm xảy ra sự việc, giữa C và T không có sự bàn bạc trước, không có ai hô hào hay, xúi dục, kích động gì. Khi đuổi theo nhóm A B, C và T mỗi người một hướng, việc C đâm gây thương tích cho A B, T hoàn toàn không biết, điều đó thể hiện hậu quả xảy ra ngoài ý chí, mong muốn của T. Quá trình đuổi theo nhóm bạn của B, T bị anh Th là Trưởng công an xã Sa Nh ngăn chặn, và T đã có hành vi dùng dao đâm anh Th thương tích 02%. Do vậy T phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a, k khoản 1 Điều 104 BLHS.

Ngoài ra, khi các bị cáo thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, Công an xã là anh Th và anh Th ngăn chặn các bị cáo để đảm bảo anh ninh trật tự tại khu vực tổ chức biểu diễn ca nhạc, theo Kế hoạch thì các bị cáo lại có hành vi dùng vũ lực, cản chở các đồng chí công an làm nhiệm vụ nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ Chống người thị hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 257 BLHS.

Từ phân tích nêu trên, HĐXX xét thấy, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “ Cố ý gây thương tích” Theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội“Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”Theo điểm a, k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự và tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009,  như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện S truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; các bị cáo đã thực hiện với lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi, các bị cáo nhận thức được việc dùng dao, kéo là hung khí nguy hiểm, đâm vào người khác có khả năng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng vẫn bất chấp mà thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Mạnh C và Phạm Văn T đã bị kết án, mới chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo T, sau khi phạm tội, ngày 03/11/2017 đã đến Công an huyện S đầu thú về hành vi phạm tội của mình và sau đó tác động mẹ bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu người bị hại. Tại phiên tòa, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ tính chất, mực độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Trong vụ án này có Lê Duy Kh và Đinh Xuân L đi cùng C và T đến chơi tại đoàn ca nhạc,  lúc C và T tham gia đánh nhau và chống người thi hành công vụ, Kh và L không tham gia cùng và cũng không bàn bạc trước hay hô hào, cổ vũ. Vì thế, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sa Thầy không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Duy Kh và Đinh Xuân L là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với anh A K( A N) và A D( A J) bị C dùng kéo đâm vào đầu, do chỉ bị xây xát chảy máu phần mềm, vết thương nhẹ nên A K và A D đã có đơn không yêu cầu giám định thương tích. Bởi vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S không xem xét giải quyết là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, anh Vũ Đức Th không yêu cầu bị cáo Phạm Văn T bồi thường thêm. Do vậy, HĐXX không xem xét. Người bị hại là A B yêu cầu bị cáo Nguyễn Mạnh C bồi thường số tiền 7.000.000 đồng, bao gồm các khoản chi phí điều trị, tiền xe đi lại trong thời gian nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.  Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất bồi thường số tiền nêu trên cho bị hại, Do vậy, HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị báo và người bị hại.

Đối với số tiền bà Mai Thị C là mẹ của bị cáo T đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại là anh Vũ Đức Th thay bị cáo số tiền 8.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà C không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đó. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, anh A D, A K yêu cầu bị cáo Nguyễn Mạnh C bồi thường chi phí thuốc men điều trị mỗi người với số tiền 1.500.000( Một triệu năm trăm ngàn) đồng. Bị cáo C nhất trí bồi thường cho anh D và anh K nên HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và anh D, anh K .

[5]  Về xử lý vật chứng: 01 kéo, cán bằng nhựa màu đen, dài 20,5cm( Đã qua sử dụng). Một con dao thái lan, cán nhựa màu vàng, dài 10,5cm, rộng 1,5cm( Đã qua sử dụng). Đây là công cụ  các bị cáo dùng để phạm tội, cần phải tịch thu tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Mạnh C và Phạm Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Riêng bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chịu tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo  Nguyễn Mạnh C và Phạm Văn T phạm tội“Cố ý gây thương tích ”và tội “ Chống người thi hành công vụ”.

- Áp dụng khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 36( Ba mươi sáu) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 257 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 12( Mười hai) tháng tù về tội “ Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 48( Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 01/11/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p, b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 09( Chín) tháng  tù“ Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng khoản 1 Điều 257 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 09( chín) tháng tù“ Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Phạm Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18( Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ 90 ngày tạm giữ, tạm giam trước đó( Từ ngày 03/11/2017 đến ngày 31/01/2018).

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; các Điều 584, 585, 586, 589 và 590 của Bộ luật dân sự năm 2015. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận tại phiên tòa về việc bị cáo Nguyễn Mạnh C tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho người bị hại A B số tiền 7.000.000( Bảy triệu)đồng, bồi thường cho anh A K số tiền 1.500.000( Một triệu năm trăm ngàn) đồng, bồi thường cho anh A D số tiền 1.500.000( Một triệu năm trăm ngàn) đồng.

Căn cứ Điều 357 Bộ Luật dân sự 2015: Kể từ ngày bản án của Toà án có hiệu lực pháp và kể từ ngày người được thi hành án gửi đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án không chịu bồi thường số tiền nêu trên cho người được thi hành án, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất chậm trả được thực hiện theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo khoản 2 Điều 468 của Luật này.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 kéo, cán bằng nhựa màu đen, dài 20,5cm( Đã qua sử dụng). Một con dao thái lan, cán nhựa màu vàng,dài 10,5cm, rộng 1,5cm( Đã qua sử dụng). Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/3/2018 giữa Công an huyện Sa Thầy và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sa Thầy)

4. Về án phí Căn cứ Khoản 2, Điều 135; Khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 3; Điều 6 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án(Ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội). Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 ( Hai trăm ngàn) đồng và 500.000( Năm trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự. Buộc bị cáo Phạm Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000( Hai trăm ngàn) đồng . Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 06 - 4-2018). Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có quyền gửi đơn kháng cáo bán án lên Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội cố ý gây thương tích và chống người thi hành công vụ

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sa Thầy - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;