Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN D, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 09/02/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 148/2017/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017 về việc “không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/01/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn

Bà Nguyễn Thị Vân A, sinh năm 1973. ĐKHKTT: Tổ 6 phường  H, quận D, thành phố Hải Phòng. Hiện trú tại: H, quận Đ, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

Bị đơn: Ông Bùi Văn V, sinh năm 1969. ĐKHKTT và trú tại: Tổ 6 phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 11/12/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Vân A trình bày: Bà và ông Bùi Văn V xây dựng gia đình từ năm 1990, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, song do không hiểu biết pháp luật nên không đăng ký kết hôn. Sau khi cưới  hai bên chung sống  hòa thuận được khoảng 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và có nhiều bất đồng về quan điểm sống. Khi xảy ra mâu thuẫn, ông V còn có hành vi bạo lực gia đình với bà. Mặc dù đã cố giải quyết song mâu thuẫn càng trầm trọng. Từ năm 2012, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Nay bà thấy tình cảm với ông V không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Bà và ông V có 02 con chung là Bùi Hoàng L, sinh năm 1990 và Bùi Thị C, sinh năm 1996; cả hai con đã trưởng  thành đủ 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Vân A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản ghi lời khai 12/01/2018, bị đơn ông V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông xác nhận về thời gian kết hôn cũng như quá trình chung sống sau đó phát sinh mâu thuẫn như bà Vân A trình bày là đúng.

Nay bà Vân A làm xin ly hôn, do vợ chồng chưa đăng ký kết hôn nên ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về nuôi con chung

Ông xác nhận vợ chồng có hai con chung như bà Vân A trình bày, các con đã trưởng thành nên không phải giải quyết.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành điều tra xác minh, thu thập chứng cứ về việc đăng ký kết hôn giữa bà Vân A và ông V; thông báo về phiên họp tiếp cận chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên ông V đều vắng mặt. Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử, ông V đã được tống đạt hợp lệ, ngày 29/01/2018, ông V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, bà Vân A đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà và ông V. Về con chung và tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm  sát phát biểu  về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX, thư ký tòa án; việc chấp hành pháp luật của người  tham gia tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị tòa án xử không công nhận bà Nguyễn Thị Vân A và ông Bùi Văn V là vợ chồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được  thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đ ồng xét x ử nh ận định:

[1] Về pháp luật tố tụng: Bà Nguyễn Thị Vân A và ông Bùi Văn V đều đăng ký hộ khẩu và cư trú trên địa bàn quận D, thành phố Hải Phòng. Bà Vân A làm đơn yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng với ông V - đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình do đó Tòa án nhân dân quận D thụ lý giải quyết là đúng quy định tại Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Bùi Văn V đã được Tòa án nhân dân quận D tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng  mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Bùi Văn V.

[2] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Vân A và ông Bùi Văn V xây dựng gia đình với nhau từ năm 1990, trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tòa án nhân dân quận D thu thập chứng cứ về việc đăng ký kết hôn giữa bà Vân A và ông V tại UBND phường H và tại Phòng tư pháp quận D, đều thể hiện trong sổ lưu đăng ký kết hôn từ năm 1989 đến nay không có trường hợp đăng ký kết hôn của bà Vân A và ông V.

Như vậy có cơ sở khẳng định: Bà Nguyễn Thị Vân A và ông Bùi Văn V chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình. Theo hướng  dẫn tại Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình: "... 4. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình" . Do đó tại phiên tòa hôm nay bà Vân A yêu cầu Tòa án không công nhận bà và ông V là vợ chồng là có căn cứ, cần chấp nhận yêu cầu của bà Vân A.

[3] Về con chung:

Bà Vân A và ông V có 02 con chung là Bùi Hoàng L, sinh năm 1990 và Bùi Thị C, sinh năm 1996; cả hai con đã trưởng  thành đủ 18 tuổi, không ai có yêu cầu về việc nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà Vân A và ông V không yêu cầu chia nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Vân A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bà Vân A và ông V có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều  28, Điều  35, Điều  39, Điều  147, Điều  227, Điều  228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 14, Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Vân A và ông Bùi Văn V.

2. Về án phí: Bà Vân A phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận D theo biên lai thu tiền số 14058 ngày 14/12/2017.

3. Bà Nguyễn Thị Vân A có quyền  kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Bùi Văn V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

480
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:05/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;