TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BT
BẢN ÁN 05/2018/DS-ST NGÀY 15/01/2018 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BĐ xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 203/2017/TLST - DS ngày 26 tháng 10 năm 2017 về “Đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2017/QĐXX - ST ngày 30 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị L, năm 1967. (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp 3, xã BT, huyện BĐ, tỉnh BT.
2. Bị đơn: Lê Thị Cẩm L, sinh năm 1976. (Vắng mặt)
Võ Thái B, sinh năm 1975. (Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã BT, huyện BĐ, tỉnh BT.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lê Thị P, sinh năm 1968 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 3, xã BT, huyện BĐ tỉnh BT.
Bà P vắng mặt nhưng có đơn xin giải quyết vắng mặt đề ngày 14/11/2017.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/8/2017 và những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, bà Trần Thị L trình bày như sau:
Ngày 15/12/2015 âm lịch, bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B có mượn bà Lê Thị P số tiền 15.000.000 đồng. Bà L có đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của bà L, ông B đối với bà P.
Ngày 21/7/2016, bà L đã trả cho bà P số tiền 5.000.000 đồng, sau đó bà L không trả nữa.
Do bà L là người đứng ra bảo lãnh, nên ngày 08/8/2016, bà L đã trả bà P số tiền 10.000.000 đồng thay cho bà L và ông B và lấy giấy nợ về giữ.
Ngày 20/6/2015 âm lịch, bà L đã cho bà L, ông B mượn số tiền 6.000.000 đồng nhưng không có làm giấy tờ.
Theo đơn khởi kiện ngày 08/8/2017, bà L yêu cầu bà L và ông B còn nợ bà L số tiền 16.000.000 đồng.
Ngày 30/11/2017, bà L có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, bà L rút yêu cầu khởi kiện bà L và ông B trả số tiền 6.000.000 đồng
Nay bà Trần Thị L yêu cầu bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B trả số tiền nợ vay là 10.000.000 đồng, bà L không yêu cầu tính lãi số tiền trên.
*Bị đơn Lê Thị Cẩm L và Võ Thái B vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không có ý kiến trình bày.
*Tại bản tự khai ngày 14/11/2017 và đơn xin giải quyết vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị P trình bày;
Vào ngày 15/12/2015, bà P có cho vợ chồng bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B vay số tiền là 15.000.000 đồng, bà L dẫn đi hỏi dùm, bà L là người bảo lãnh, nếu ông B và bà L không trả thì bà L phải có trách nhiệm trả tiền cho bà P. Khi vay có làm giấy vay, không thỏa thuận lãi suất, không thỏa thuận thời hạn trả nợ, khi nào tôi cần thì báo trước. Sau 01 tháng, bà P có yêu cầu bà L và ông B trả nợ. Ngày 21/7/2016, bà L và ông B trả tôi số tiền 5.000.000 đồng. Sau đó, bà P có yêu cầu bà L và ông B trả số tiền 10.000.000 đồng còn lại nhưng bà L và ông B vẫn không trả.
Bà P có kêu bà L và bà L lại để nói rằng do bà L là người bảo lãnh, nên bà L có nghĩa vụ trả số tiền nợ còn lại của ông B và bà L cho bà P. Lúc đó có mặt bà P, bà L, bà L, cả 3 thống nhất bà L trả bà P số tiền 10.000.000 đồng, lúc đó L cũng đồng ý, sau này bà L phải có nghĩa vụ trả số tiền này cho bà L. Giấy tờ vay tiền của bà L và ông B ký tên, bà P đã giao lại cho bà L.
Nhưng sau đó bà L không trả tiền cho bà L, nên bà L khởi kiện yêu cầu bà L và ông B trả tiền là đúng. L là người bảo lãnh nên phải chịu trách nhiệm trả cho bà P số tiền 10.000.000 đồng, số tiền 10.000.000 đồng mà L đã trả cho bà P, do đó ông B và bà L phải có trách nhiệm trả số tiền này cho bà L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, qua trình bày của nguyên đơn và phát biểu của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B là bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông B và bà L là phù hợp quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bà Lê Thị P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà P là phù hợp quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Về nội dung
[1] Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với yêu cầu đòi lại 10.000.000 đồng thì thấy rằng: Ngày 15/12/2015, bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B nhờ bà Trần Thị L dẫn đi vay giùm số tiền 15.000.000 đồng của bà Lê Thị P. Việc bà L và ông B vay tiền của bà P có sự bảo lãnh của bà L bằng lời nói là có trách nhiệm trả nợ cho L và ông B, nếu bà L và ông B không thực hiện đúng thỏa thuận. Ngày 21/7/2016, bà L và ông B đã trả cho bà Phượng số tiền 5.000.000 đồng. Bà P yêu cầu bà L bà ông B trả số tiền 10.000.000 đồng còn lại, nhưng do bà L và ông B không thực hiện theo thỏa thuận nên ngày 08/8/2016, bà L trả cho bà P số tiền 10.000.000 đồng thay cho ông B và bà L. Việc trả số tiền này có sự thống nhất của bà L, bà P và bà L. Các bên có thỏa thuận sau này bà L và ông B phải có nghĩa vụ trả số tiền này cho bà L. Giấy tờ vay tiền của bà L và ông B ký tên, bà P đã giao lại cho bà L.
[2] Hợp đồng bảo lãnh giữa các đương sự không lập thành văn bản, nhưng khi bà L và ông B không trả nợ vay cho bà P, nên bà L đã tự nguyện trả thay cho bà L và ông B số tiền 10.000.000 đồng là đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bà L và ông B. Căn cứ Điều 367 Bộ luật dân sự năm 2005 thì bà L và ông B có trách nhiệm trả lại cho bà Trần Thị L số tiền 10.000.000 đồng.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai ngày 14/11/2017, 30/11/2017 nhưng phía bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B không tham dự là đã từ bỏ quyền tham gia hòa giải bảo vệ mình theo khoản 11 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị L đã có đơn yêu cầu Tòa án đối chất, Tòa án đã tổ chức đối chất hai ngày 14/11/2017, 30/11/2017 nhưng phía bị đơn bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B đều vắng mặt không tham dự là đã từ bỏ quyền đối chất để bảo vệ mình theo khoản 19 Điều 70 và Điều 100 Bộ luật tố tụng dân sự.
[5] Xét thấy, bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B được tống đạt, niêm yết công khai tại nơi cư trú các tài liệu chứng cứ mà bên phía nguyên đơn đã giao nộp cho tòa án nhưng phía bị đơn không có chứng cứ nào chứng minh hay lời phản đối của mình về việc vay tiền của bà Lê Thị P và việc trả nợ thay của bà Trần Thị L là đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ theo khoản 5, 7 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên xác định bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B còn nợ bà Trần Thị L số tiền nợ là 10.000.000 đồng.
[6] Qua hợp đồng vay tiền, bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B đã sử dụng hết quyền nhận tài sản nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà P nên bà L trả nợ thay cho bà L và ông B, vì vậy bà L khởi kiện bà L và ông B đòi lại số tiền 10.000.000 đồng là có căn cứ phù hợp Điều 256 Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Ghi nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu bà L và ông B trả lãi số nợ trên.
[8] Đối với khoản vay ngày 20/6/2015 âm lịch, bà Trần Thị L có đơn xin rút đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2017, bà L rút yêu cầu ông B và bà L trả số tiền 6.000.000 đồng và được Hội đồng xét xử chấp nhận theo điểm c, khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, đình chỉ yêu cầu này của bà L.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của bà L được chấp nhận nên bà L và ông B phải liên đới chịu theo quy định, số tiền án phí cụ thể như sau:10.000.000 đồng x 5% = 500.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng vào Điều 256, 367 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; 147, 217, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L đối với bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B về việc “Đòi tài sản”.
2. Buộc bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Trần Thị L số tiền nợ là 10.000.000 đồng. (Mười triệu đồng).
3. Ghi nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông B và bà L trả lãi số tiền trên.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L đối với bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B về việc yêu cầu ông B và bà L trả khoản nợ vay ngày 20/6/2015 âm lịch số tiền là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).
5. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Thái B phải liên đới chịu 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng).
Hoàn trả bà Trần Thị L số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006019 ngày 26/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh BT.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bà Lê Thị P, ông Võ Thái B và bà Lê Thị Cẩm L vắng mặt cũng được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết bản án theo qui định của pháp luật./.
Bản án 05/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 về đòi tài sản
Số hiệu: | 05/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về