TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 04/HNGĐ-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 10 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 85/2023/TLST - HNGĐ, ngày 11 tháng 12 năm 2023 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2024/QĐXX - ST ngày 07 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phan Thị Ái M, sinh năm 1976.
Hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu phố PN, phường PĐ, thị xã BL, tỉnh B, chỗ ở: Số 120, đường PNT, khu phố PT, phường AL, thị xã BL, tỉnh B.
Bị đơn: Anh Phùng Thiện M1, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Tổ 4, khu phố PN, phường PĐ, thị xã BL, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện,các tài liệu chứng cứ kèm theo và lời trình bày của nguyên đơn Phan Thị Ái M:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Ái M chung sống với anh Phùng Thiện M1 từ năm 1997 nhưng đến năm 2009 cả hai mới đăng ký kết hôn. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, cả hai đều kết hôn lần thứ nhất, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn An Lộc, huyện B (nay là phường An Lộc, thị xã B), tỉnh B.
Sau khi kết hôn thì vợ chồng chị M với anh M1 chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây anh Phùng Thiện M1 thường xuyên chửi bới, đánh đập, nhục mạ chị M, làm ảnh hưởng đến tinh thần và thể chất của chị M nên cuộc sống vợ chồng mất hạnh phúc, do không thể chung sống cùng nhau nên chị M đã sống ly thân với anh M1 từ tháng 12/2023 tới nay.
Về quan hệ con chung: Giữa chị M và anh M1 có ba con chung gồm các cháu: Phùng Nhật H, sinh năm 1998, Phùng Nguyên C, sinh năm 2003 và Phùng Thiên Thảo N, sinh năm 2015.
Chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị M được ly hôn với anh Phùng Thiện M1. Sau khi ly hôn thì chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là cháu Phùng Thiên Thảo N, không yêu cầu anh M1 phải cấp dưỡng nuôi con, các con chung gồm Phùng Nhật H, Phùng Nguyên C đã trưởng thành nên không cần ai phải nuôi dưỡng. Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung.
Anh Phùng Thiện M1 trình bày: Về quan hệ hôn nhân và con chung thì anh M1 thống nhất như lời trình bày của chị M. Còn về mâu thuẫn vợ chồng thì anh M1 không biết chị M có ý gì khác mà thường xuyên bỏ nhà đi. Từ khi vợ chồng kết hôn tới nay thì chị M đã bỏ đi nhiều lần, anh M1 vẫn thường khuyên nhủ kêu vợ quay về chung sống để cùng nhau lo cho con. Đầu tháng 12/2023 chị M lại tiếp tục dẫn con nhỏ đi, anh M1 có đi kêu về nhưng chị M không về dẫn đến xô xát và anh M1 bị Công an lập biên bản xử lý. Tại phiên tòa, anh M1 đồng ý ly hôn với chị M nhưng không đồng ý giao con chung là cháu Phùng Thiên Thảo Nguyên cho chị M nuôi dưỡng như chị M yêu cầu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký tòa án tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Tòa án công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Phan Thị Ái M và anh Phùng Thiện M1.
Về con chung: Do cháu Phùng Thiên Thảo N là cháu gái và cháu N có nguyện vọng được chung sống với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn. Mặt khác hiện nay chị M có công việc và thu nhập ổn định đủ khả năng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Nguyên cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với hai con chung là Phùng Nhật H và Phùng Nguyên C đã trưởng thành nên không ai phải nuôi dưỡng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng luật tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Ái M và anh Phùng Thiện M1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân của họ hợp pháp. Quá trình chung sống chị M và anh M1 không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Anh M1 đã từng hành hung chị M dẫn đến việc anh M1 bị Công an phường An Lộc xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 2598/QĐ-XPHC ngày 12/12/2023. Từ đó tới nay chị M đã sống ly thân với anh M1. Xét mục đích hôn nhân giữa chị M và anh M1 không đạt được, quan hệ hôn nhân trên thực tế là không còn, tại phiên tòa anh M1 cũng đồng ý ly hôn nên cần công nhận sự thỏa thuận của hai đương sự về việc thuận tình ly hôn.
[3] Về con chung: Giữa chị Phan Thị Ái M và anh Phùng Thiện M1 có ba con chung là các cháu: Phùng Nhật H, sinh năm 1998, Phùng Nguyên C, sinh năm 2003 và Phùng Thiên Thảo N, sinh năm 2015. Hai cháu H, C đã trưởng thành không cần ai phải nuôi dưỡng. Cháu Phùng Thiên Thảo N còn nhỏ tuổi và chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu N sau khi ly hôn. Anh M1 không đồng ý cho chị M được nuôi cháu Nguyên. Tuy nhiên cháu N có nguyện vọng được chung sống cùng với mẹ nếu cha mẹ ly hôn; bản thân chị M có việc làm, có thu nhập đủ khả năng nuôi con nên chấp nhận cho chị M được nuôi cháu Nguyên sau khi ly hôn là phù hợp. Chị M không yêu cầu anh M1 phải cấp dưỡng nuôi con nên không xét.
[4] Về tài sản chung: Các đương sự không có ai yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung nên Tòa án không xét.
[5] Về án phí: Chị Phan Thị Ái M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã B phát biểu tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng các điều 51, 55 Luật hôn nhân và gia đình: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phan Thị Ái M và anh Phùng Thiện M1.
2. Về quan hệ con chung: Áp dụng các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Giao con chung là Phùng Thiên Thảo N, sinh ngày 25/7/2015 cho chị Phan Thị Ái M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, anh Phùng Thiện M1 không phải cấp dưỡng nuôi con. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
3. Về tài sản chung: Tòa án không giải quyết việc chia tài sản chung do hai đương sự không có ai yêu cầu.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Phan Thị Ái M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã đóng theo biên lai thu số 0002997, ngày 04/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh B.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 04/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về