TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 08/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Phạm Ngọc Đ, sinh ngày 04/10/1997 tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: thôn V, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: ngày 23/3/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “trộm cắp tài sản” tại bản án số 07/2015/HSST; ngày 07/12/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” tại bản án số 83/2023/HS-ST; ngày 25/12/2023 bị Công an huyện Quế Sơn xử phạt vi phạm hành chính 2.250.000 đồng về hành vi “trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/9/2023, chuyển tạm giam từ ngày 21/9/2023 đến nay. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Quế Sơn. Có mặt.
- Bị hại:
+ Anh Trần D, sinh năm 1991. Vắng mặt.
+ Anh Trương Thành T, sinh năm 1980. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
+ Chị Hồ Thị Châu L, sinh năm 1980. Địa chỉ: thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Đinh Hữu T1, sinh năm 1963. Vắng mặt.
+ Anh Đinh Hữu M, sinh năm 1987. Có mặt.
Cùng địa chỉ: thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
+ Chị Đỗ Thị P, sinh năm 1997. Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
+ Ông Võ Văn S, sinh năm 1964. Địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1968.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L1: ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967 (chồng bà L1). Có mặt.
+ Chị Tăng Thị P1, sinh năm 1994. Có mặt.
Cùng địa chỉ: thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
+ Anh Nguyễn Tuấn L2, sinh năm 1998. Địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
+ Anh Lê Hoàng V, sinh năm 1987. Địa chỉ: tổ dân phố H, thị trấn H, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
+ Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn V, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam: ông Nguyễn Văn L - Thư ký Toà án nhân dân huyện Quế Sơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ khoảng tháng 8/2023 đến tháng 9/2023, bị cáo đã nhiều lần trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: khoảng 22 giờ ngày 13/9/2023, bị cáo điều khiển xe môtô Future, màu đen, biển số 92H1 - xxxxx đi từ nhà đến huyện Quế Sơn để trộm cắp 2 tài sản. Khi đến đoạn đường gần chân Đèo Le (thuộc xã Quế Long), bị cáo dựng xe môtô trên đường rồi đi bộ khoảng 100m thì nhìn thấy nhà anh T không đóng cửa; bị cáo nhìn thấy bên cạnh cửa sổ nhà anh T có một điện thoại di động nên thò tay vào lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus (bên trong có thẻ sim) và 01 cục sạc điện thoại. Bị cáo tiếp tục đi bộ khoảng 100m thì phát hiện nhà anh D không khoá cửa; bị cáo đi vào trong nhà thấy anh D đang nằm ngủ trên giường, bên cạnh giường có 01 cái ghế, trên ghế để 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng (bên trong có thẻ sim), 01 cục sạc điện thoại, 01 cục sạc dự phòng màu vàng, 01 tai nghe có dây màu đen và nhìn thấy trên đầu giường ngủ có 01 ví da màu nâu, trong ví có 02 thẻ ATM, 01 căn cước công dân, 02 giấy phép lái xe và số tiền 1.990.000 đồng. Bị cáo lấy tất cả đồ vật trên rồi đi ra khỏi nhà, lại vị trí để xe, bỏ tất cả tài sản vừa trộm được vào cốp xe, riêng ví da bên trong có 02 giấy phép lái xe, 01 căn cước công dân và 02 thẻ ATM bị cáo vứt ngoài đường. Sau đó, bị cáo điều khiển xe về lại nhà ngủ. Sáng ngày 14/9/2023, bị cáo tìm trên facebook thấy tài khoản “H” nên đem điện thoại Iphone 7 plus bán cho người đàn ông này (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) tại thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên được 1.000.000 đồng. Đến sáng ngày 15/9/2023, bị cáo đem điện thoại Iphone XS Max đến cửa hàng điện thoại K tại thị trấn Nam Phước để bán thì bị Công an mời về trụ sở làm việc.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
+ 01 điện thoại di động Iphone XS max, màu trắng, dung lượng 64GB có ốp lưng điện thoại bằng nhựa trong suốt, kèm bộ sạc, bên trong có 01 sim điện thoại có giá trị định giá là 795.700 đồng.
+ 01 pin sạc dự phòng loại 20.000mAh, màu vàng có giá trị định giá là 225.000 đồng.
+ 01 dây tai nghe di động hiệu Remax, màu đen có giá trị định giá là 135.000 đồng.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
+ 01 điện thoại iphone 7 Plus màu đen được mua vào năm 2018 kèm bộ sạc, 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 535.000 đồng.
+ 02 thẻ ATM có giá trị định giá là 50.000 đồng.
+ 01 căn cước công dân có giá trị định giá là 70.000 đồng.
+ 02 giấy phép lái xe có giá trị định giá là 230.000 đồng.
+ 01 ví da có giá trị định giá 0 đồng.
Tổng giá trị tài sản và tiền mặt tại thời điểm bị xâm phạm là 4.030.700 đồng.
Vụ thứ hai: khoảng hơn 23 giờ (không nhớ ngày cụ thể) tháng 8 năm 2023, bị cáo điều khiển xe môtô FUTURE biển số 92H1-xxxxx đi trên đường 3 ĐT611 hướng thị trấn Hương An - xã Quế An để xem nhà nào không đóng cửa thì vào lấy trộm tài sản. Khi vừa qua khỏi cầu Liêu thuộc xã Quế An 100m thì bị cáo rẽ trái, để xe môtô tại đây rồi đi bộ theo đường bê tông khoảng 20m, phát hiện nhà ông S không đóng cửa nên leo qua hàng rào, đi vào nhà qua cửa chính. Bị cáo thấy ông S đang ngủ trên giường tại phòng khách, bên cạnh có một điện thoại Samsung S21 đang sạc pin và 01 tai nghe không dây nên lấy sạc pin, điện thoại, tai nghe không dây bỏ vào túi quần rồi đi ra khỏi nhà. Khi ra đến sân, bị cáo thấy có 01 xe môtô hiệu EXCITER có gắn chìa khóa trên xe nên dùng chìa khóa mở cốp xe thấy có một cái ví, bên trong có số tiền 1.000.000 đồng, bị cáo lấy tiền cất vào túi quần, bỏ ví lại cốp xe rồi leo hàng rào ra khỏi nhà, đi bộ lại vị trí để xe rồi điều khiển xe về lại nhà. Bị cáo lấy tài sản trộm được vào phòng mình kiểm tra thì phát hiện điện thoại trộm được là Samsung S21 màn hình bị sọc dọc, bên trong có 01 thẻ sim, 01 bộ sạc điện thoại Samsung và 01 tai nghe không dây. Chiều hôm sau, bị cáo đem điện thoại cùng bộ sạc đến một cửa hàng tại thành phố Đà Nẵng (không nhớ địa chỉ) bán được 1.000.000 đồng, sim điện thoại bị cáo tháo ra và vứt trên đường đi, tai nghe không dây bị cáo giữ lại để sử dụng và đã bị Cơ quan Công an phát hiện thu giữ.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
- 01 điện thoại SamSung S21, màn hình bị sọc dọc kèm bộ sạc có giá trị định giá là 5.029.700 đồng - 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng.
- 01 tai nghe không dây có giá trị định giá là 1.590.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản và tiền mặt tại thời điểm bị xâm phạm là 7.654.700 đồng.
Vụ thứ ba:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/8/2023, bị cáo điều khiển xe môtô Future biển số 92H1-xxxxx đi từ nhà đến thị trấn Đông Phú để trộm cắp tài sản. Khi đi đến đoạn đường xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn, bị cáo nhớ đến nhà ông T1 (đã trộm 01 lần trước đây) nên điều khiển xe lại gần nhà này. Bị cáo để xe môtô gần đó rồi đi bộ vào, lần này bị cáo cũng thấy nhà ông T1 không đóng cửa nên đi bộ vào nhà qua cửa hông vào phòng khách nhưng không thấy tài sản gì. Bị cáo vào phòng ngủ thấy anh M (con ông T1) và chị P (bạn gái anh M) đang ngủ trên giường, bên cạnh có một điện thoại OPPO A9 (bên trong có 01 thẻ sim). Bị cáo lấy điện thoại OPPO bỏ vào túi quần rồi tiếp tục phát hiện dưới chân giường có một túi ni lông bên trong có 01 thẻ ATM và số tiền 100.000 đồng, bị cáo cầm túi ni lông này trên tay rồi đi xuống nhà dưới. Bị cáo phát hiện trên tủ đựng đồ có 01 điện thoại Vivo Y35 màu đen (không có thẻ sim) và 01 điện thoại Nokia TA1375 màu đen (bên trong có 01 thẻ sim) nên lấy bỏ vào túi quần. Sau đó, bị cáo đi ra đến sân nhà thì ông T1 phát hiện truy hô nên bỏ chạy ra khu đồng trống gần đường ĐT611. Khoảng 30 phút sau, bị cáo lại vị trí để xe môtô rồi lấy xe ra về. Bị 4 cáo mang tài sản trộm cắp được về nhà kiểm tra, thấy trên điện thoại Vivo có tài khoản facebook đã kết bạn với facebook của chị P, bị cáo thấy giống tên trên thẻ ATM nên vào kiểm tra thông tin ngày tháng năm sinh trên facebook này rồi lấy thẻ ATM mang tên Đỗ Thị P vào trạm ATM Agribank gần ngã tư Hà Lam, huyện Thăng Bình để rút tiền trong tài khoản. Bị cáo nhập mật khẩu là ngày tháng năm sinh của chị P thì mật khẩu đúng, bị cáo kiểm tra số dư trong tài khoản thì không có số dư nên cất thẻ ATM lại trong người rồi mang 03 điện thoại trộm cắp được bán cho 01 cửa hàng điện thoại tại thành phố Đà Nẵng (không nhớ rõ địa chỉ). Điện thoại OPPO bán được 1.000.000 đồng, điện thoại Vivo bán được 800.000 đồng, điện thoại Nokia bán được 50.000 đồng, 02 thẻ sim trong các điện thoại trên bị cáo tháo ra và vứt trên đường đi.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
- 01 điện thoại di động Nokia TA1375 màu đen có giá trị định giá là: 585.000 đồng.
- 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng.
- 01 điện thoại di động hiệu VIVO Y35 màu đen có giá trị định giá là 4.140.000 đồng.
- 01 điện thoại di động OPPO A9 màu trắng có giá trị định giá là 2.040.000 đồng.
- 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng.
- 01 thẻ ATM có giá trị định giá là 25.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản và tiền mặt tại thời điểm bị xâm phạm là 6.960.000 đồng.
Vụ thứ tư:
Sau khi lấy trộm thẻ ATM của chị P, khoảng hơn 20 giờ ngày 06/9/2023, bị cáo lấy thẻ ATM này vào trạm ATM Agribank Hương An để kiểm tra trong tài khoản có tiền hay không thì phát hiện trong tài khoản của chị P có số tiền khoảng 5.600.000 đồng. Bị cáo thực hiện lệnh rút tiền từ tài khoản của chị P thông qua trạm ATM này 02 lần, lần thứ nhất rút số tiền 5.000.000 đồng, lần thứ 2 rút số tiền 500.000 đồng. Sau đó, mang thẻ ATM đi vứt nhưng không nhớ rõ vị trí. Tổng số tiền là 5.500.000 đồng.
Vụ thứ năm:
Khuya một ngày đầu tháng 9/2023, bị cáo điều khiển xe môtô Future biển số 92H1-xxxxx đi từ nhà đến thị trấn Đông Phú để trộm cắp tài sản. Khi đến đoạn đường thuộc xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn, bị cáo phát hiện nhà chị L không đóng cửa nên để xe môtô cách nhà chị L khoảng 10m rồi leo rào vào nhà. Bị cáo thấy chị L đang ngủ trên giường tại phòng ngủ, bên cạnh có một điện thoại Samsung A03S (bên trong có 01 thẻ sim) nên lấy điện thoại này bỏ vào túi quần rồi leo rào ra lấy xe đi về. Trưa ngày hôm sau, bị cáo đem điện thoại này đến cửa hàng điện thoại di động Hoàng Vũ tại thị trấn Hương An do anh V làm 5 chủ bán với giá 1.000.000 đồng, còn sim điện thoại bị cáo tháo ra vứt nhưng không nhớ vị trí. Khoảng ngày 16/9/2023, anh V bán điện thoại này lại cho anh L2 với giá 1.800.000 đồng. Sau khi mua điện thoại trên, anh L2 về kiểm tra điện thoại thì phát hiện facebook của chị L nên kết bạn và yêu cầu chị L lấy lại điện thoại và trả cho anh L2 số tiền 1.800.000 đồng đã bỏ ra mua. Đến ngày 19/9/2023, chị L đến gặp anh L2 tại thị trấn Hương An để lấy điện thoại thì Công an đến lập biên bản tạm giữ điện thoại nêu trên và số tiền 1.800.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 điện thoại di động SamSung A03S màu xanh có giá trị định giá là 2.596.000 đồng, 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị xâm phạm là 2.631.000 đồng.
Ngoài ra, bị cáo còn thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:
Vụ thứ nhất: khoảng 22 giờ một ngày đầu tháng 8/2023, bị cáo điều khiển xe môtô Future biển số 92H1-xxxxx đi từ nhà đến thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn để xem nhà nào không đóng cửa thì vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến đoạn đường thuộc xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn, bị cáo rẽ phải vào một đường nhỏ, nhìn thấy nhà ông T1 không đóng cửa hông nên bị cáo dừng xe cách nhà này khoảng 10m rồi đi bộ vào nhà. Bị cáo thấy ông T2 đang nằm ngủ tại phòng khách, bên cạnh có một điện thoại OPPO A58 màu đen (bên trong có thẻ sim) nên lấy điện thoại này bỏ túi quần rồi đi ra khỏi nhà. Bị cáo tiếp tục đi bộ đến nhà bà V (cách nhà ông T2 2 ngôi nhà), thấy nhà này cũng mở cửa chính và cửa hông nên đi bộ vào nhà qua cửa hông thì thấy bà L1 (là con bà V) đang ngủ trên giường tại phòng khách, bên cạnh có một Ipad Gen 5 và một bộ sạc pin Ipad nên bị cáo dùng tay rút sạc ra khỏi ổ điện rồi lấy Ipad cùng bộ sạc và đi ra khỏi nhà. Bị cáo đi và nhìn vào nhà chị P1 (sát bên nhà bà V) thấy có một điện thoại di động OPPO A5S đang để trên tủ tại vị trí sát cửa sổ nên thò tay vào cửa sổ lấy điện thoại bỏ vào túi quần sau đó ra vị trí để xe, lấy tất cả tài sản trộm được bỏ vào cốp xe rồi đi về nhà. Đến trưa hôm sau bị cáo đem điện thoại, Ipad đến một cửa hàng tại thành phố Đà Nẵng (không nhớ rõ tên, địa chỉ) để bán, bị cáo bán 02 điện thoại OPPO với giá 1.000.000 đồng (oppo A5S 300.000 đồng, oppo A58 700.000 đồng) và Ipad với giá 1.500.000 đồng. Các sim điện thoại trộm được bị cáo tháo ra vứt nhưng không nhớ rõ vứt ở vị trí nào.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A58, màu đen có giá trị định giá là 918.000 đồng.
- 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng.
- 01 Ipad Gen 5 màu trắng bạc và bộ sạc kèm theo được mua năm 2018 có giá trị định giá là 600.000 đồng.
6 - 01 điện thoại di động hiệu OPPO A5S, màu xanh - đen, bị vỡ màn hình có giá trị định giá là 161.000 đồng.
- 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị xâm phạm là 1.749.000 đồng.
Vụ thứ hai: sau vụ trộm cắp tài sản nhà ông S đã nêu ở trên, khoảng 01 giờ (không nhớ ngày cụ thể), bị cáo điều khiển xe môtô Future biển số 92H1- xxxxx đi từ nhà đến xã Quế An, huyện Quế Sơn để trộm cắp tài sản. Bị cáo tiếp tục đi theo đường cũ, để xe tại vị trí cũ và đến nhà ông S. Nhà ông S vẫn không đóng cửa nên bị cáo tiếp tục leo qua hàng rào rồi đi vào nhà qua cửa chính, thấy ông S đang ngủ trên giường, bên cạnh có một điện thoại di động Iphone 5 (bên trong có 01 thẻ sim) nên bị cáo lấy điện thoại di động bỏ vào túi quần rồi đi lại vị trí bộ bàn ghế giữa nhà và thấy một cái quần dài đang treo trên ghế, bị cáo thò tay vào túi quần kiểm tra thì phát hiện có 200.000 đồng nên lấy số tiền này bỏ vào túi quần rồi đi ra khỏi nhà. Sau khi lấy được tài sản, bị cáo điều khiển xe môtô về nhà. Chiều ngày hôm sau, bị cáo điều khiển xe môtô ra thành phố Đà Nẵng bán điện thoại Iphone 5 cho 01 cửa hàng điện thoại di động (không nhớ địa chỉ) được 500.000 đồng, thẻ sim bị cáo vứt trên đường đi bán điện thoại.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:
- 01 điện thoại di động Iphone 5 có giá trị định giá là 200.000 đồng.
- 01 thẻ sim điện thoại có giá trị định giá là 35.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản và tiền mặt bị xâm phạm là 435.000 đồng.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 điện thoại di động Iphone XS max, bên ngoài có ốp lưng bằng nhựa không màu; 01 tai nghe màu đen hiệu Remax; 01 cục sạc dự phòng màu vàng: đã trả lại cho chủ sở hữu là ông D. 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A03S và số tiền 1.800.000 đồng, đã trả cho chủ sở hữu là bà L.
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, bên trong có thẻ sim; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, bên trong có thẻ sim; 01 đầu cục sạc màu trắng có chữ COOIPAD; 01 tai nghe không dây, bên trên có chữ SAMSUNG màu đen, bên ngoài có ốp nhựa màu hồng; 01 quần tây màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước bên trái có chữ PANDA; 01 áo thun ngắn tay màu xanh, phía trước có chữ SDINSTYLE; 01 áo khoác dài tay màu trắng xanh;
01 xe môtô hiệu Honda, loại Future 125, màu đen bạc, biển số 92H1-xxxxx.
Tại Bản cáo trạng số 03/CT-VKSQS ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn đã truy tố bị cáo về tội "trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên 7 bố bị cáo phạm tội “trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù; áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp với hình phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội "trộm cắp tài sản" của bản án số 83/2023/HSST ngày 07/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 15/9/2023.
Về xử lý vật chứng: buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo giá trị định giá. Anh V phải trả cho anh L2 số tiền là 1.800.000 đồng, bị cáo trả cho anh V số tiền 1.000.000 đồng. Trả cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, bên trong có thẻ sim, 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, bên trong có thẻ sim, 01 đầu cục sạc màu trắng có chữ COOIPAD. Tịch thu tiêu hủy: 01 quần tây màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước bên trái có chữ PANDA; 01 áo thun ngắn tay màu xanh, phía trước có chữ SDINSTYLE; 01 áo khoác dài tay màu trắng xanh. Trả cho ông Phạm Văn Đ 01 xe môtô hiệu Honda, loại Future 125, màu đen bạc, biển số 92H1-xxxxx. Trả ông S 01 tai nghe không dây, bên trên có chữ SAMSUNG màu đen, bên ngoài có ốp nhựa màu hồng.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bị cáo nói lời sau cùng: xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa, một số bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Xét thấy những người này đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và việc họ vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt.
[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3]. Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử kết luận:
Từ khoảng tháng 8/2023 đến tháng 9/2023, trên địa bàn huyện Quế Sơn, bị cáo nhiều lần lợi dụng sơ hở của các chủ sở hữu, lén lút trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản là 26.776.400 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, bị cáo còn thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác của ông T1, bà L1, chị P1 và ông S nhưng giá trị tài sản dưới 2.000.000 đồng.
Do đó, Cáo trạng số 03/CT-VKSQS ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội: quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo nhận thức rõ được điều đó nhưng vẫn lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản với mục đích sử dụng cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
[5]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu; bị cáo 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị trên 2.000.000 đồng nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công cách mạng và có hoàn cảnh khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị cáo.
[6]. Đối với các lần trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng, Công an huyện Quế Sơn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo là phù hợp.
- Đối với người đàn ông tên H mua điện thoại IPhone 7 Plus của bị cáo:
do bị cáo không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xử lý.
- Đối với anh Lê Hoàng V và anh Nguyễn Tuấn L2: những người này không hứa hẹn trước và khi mua điện thoại không biết đây tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên không xử lý là phù hợp.
- Đối với xe mô tô biển số 92H1-xxxxx do ông Phạm Văn Đ là chủ sở hữu, ông Đ không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện trộm cắp nên không xử lý là phù hợp.
[7]. Về trách nhiệm dân sự:
- Chị L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Anh T, anh D, ông T1, anh M, ông S, chị P, bà L1 và chị P1 yêu cầu bị cáo bồi thường tài sản theo giá trị định giá. Xét thấy yêu cầu bồi thường của những người này là hợp pháp nên căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho: anh T 535.000 đồng, ông T1 1.573.000 đồng, anh M 4.140.000 đồng, chị P 7.700.000 đồng, bà L1 600.000 đồng, chị P1 196.000 đồng, ông S 6.499.700 đồng và anh D 2.340.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường là 23.578.700 đồng.
- Anh V yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.000.000 đồng là phù hợp. Vì vậy, bị cáo có nghĩa vụ trả cho anh V 1.000.000 đồng. Đối với việc anh L mua điện thoại của anh V nên anh V có nghĩa vụ trả cho anh L số tiền là 1.800.000 đồng.
[8]. Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động Iphone XS max, bên ngoài có ốp lưng bằng nhựa không màu; 01 tai nghe màu đen hiệu Remax; 01 cục sạc dự phòng màu vàng; 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A03S; số tiền 1.800.000 đồng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định.
- 01 tai nghe không dây, bên trên có chữ SAMSUNG màu đen, bên ngoài có ốp nhựa màu hồng là tài sản bị cáo trộm cắp của ông S nên cần trả lại cho ông Sửu.
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, bên trong có thẻ sim; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, bên trong có thẻ sim; 01 đầu cục sạc màu trắng có chữ COOIPAD là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- 01 quần tây màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước bên trái có chữ PANDA; 01 áo thun ngắn tay màu xanh, phía trước có chữ SDINSTYLE; 01 áo khoác dài tay màu trắng xanh là tài sản của bị cáo, bị cáo không có yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- Trả lại cho ông Đ 01 xe môtô hiệu Honda, loại Future 125, màu đen bạc, biển số 92H1-xxxxx [9]. Về biện pháp tư pháp:
Do các đương sự yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại theo giá trị định giá nên cần truy thu số tiền thu lợi chênh lệch từ việc bị cáo bán điện thoại mà có, cụ thể: Ipad Gen 5 màu trắng bạc và bộ sạc kèm theo của bà L1 có giá trị định giá là 600.000 đồng, bị cáo đã bán được 1.500.000 đồng nên truy thu của bị cáo số tiền là 900.000 đồng; điện thoại oppo A5S của chị P1 được định giá là 161.000 đồng, bị cáo bán được 300.000 đồng nên truy thu của bị cáo số tiền 139.000 đồng; điện thoại Iphone 7plus của anh T được định giá là 500.000 đồng, bị cáo bán được 1.000.000 đồng nên truy thu của bị cáo số tiền là 500.000 đồng; điện thoại Iphone 10 5 của ông S được định giá là 200.000 đồng, bị cáo bán được 500.000 đồng nên truy thu của bị cáo số tiền là 300.000 đồng. Tổng cộng số tiền truy thu sung vào ngân sách Nhà nước là 1.839.000 đồng.
[10]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 48, Điều 56 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố: bị cáo Phạm Ngọc Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Đ 02 (hai) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội "trộm cắp tài sản" của bản án số 83/2023/HSST ngày 07/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình. Tổng hợp hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 15/9/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo có nghĩa vụ bồi thường, cụ thể như sau: cho anh T 535.000 đồng, ông T1 1.573.000 đồng, anh M 4.140.000 đồng, chị P 7.700.000 đồng, bà L1 600.000 đồng, chị P1 196.000 đồng, ông S 6.499.700 đồng, anh D 2.340.000 đồng, anh V 1.000.000 đồng, tổng cộng là 24.583.700 đồng.
Anh V có nghĩa vụ trả cho anh L số tiền 1.800.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về xử lý vật chứng:
- Trả cho ông S: 01 tai nghe không dây, bên trên có chữ SAMSUNG màu đen, bên ngoài có ốp nhựa màu hồng.
- Tiếp tục tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, bên trong có thẻ sim; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, bên trong có thẻ sim; 01 đầu cục sạc màu trắng có chữ COOIPAD để đảm bảo thi hành án.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 quần tây màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước bên trái có chữ PANDA; 01 áo thun ngắn tay màu xanh, phía trước có chữ SDINSTYLE; 01 áo khoác dài tay màu trắng xanh.
- Trả cho ông Đ: 01 xe môtô hiệu Honda, loại Future 125, màu đen bạc, biển số 92H1-xxxxx.
(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01/02/2024).
4. Về biện pháp tư pháp: truy thu số tiền bị cáo thu lợi bất chính là 1.839.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.
5. Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
Án phí dân sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu 1.229.185 đồng.
6. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/3/2024). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 04/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 04/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về