Bản án 04/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội hủy hoại tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Vào hồi 09 giờ 00 phút, ngày 28/01/2021 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/HSST, ngày 15/01/2021; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:05/2021/QĐXXST-HS, ngày 15/01/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 07/4/1987, tại xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ĐKNKTT và chổ ở: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đình D (đã chết) và bà Võ Thị M; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 12/4/2004 bị Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản, quyết định số: 28/QĐ/XPVPHC;

Ngày 25/01/2013 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 22 tháng 10 ngày về tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” bản án số: 04/2013/HSST, chấp hành xong bản án ngày 03/12/2014; Tiền án: Ngày 12/6/2018 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, bản án số: 12/2018/HSST, chấp hành xong bản án vào ngày 27/12/2018, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/12/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Võ Thị M; sinh năm: 1952. Cư trú: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Có mặt.

- Những người làm chứng:

+ Anh Trần Đình T; sinh năm: 1989. Cư trú: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt.

+ Anh Trần Đình N; sinh năm: 1992. Cư trú: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt.

+ Ông Trần Quốc B; sinh năm: 1962. Cư trú: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Xuân K; sinh năm: 1983. Cư trú: Thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt.

- Đại diện UBNX xã A, huyện H: Ông Nguyễn Hưu Đ1 - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã A, huyện H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ, ngày 10/12/2020 sau khi đi đám cưới và trước đó có sử dụng rượu, ma túy nên Trần Đình Đ, sinh năm 1987, trú tại thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh về nhà mẹ đẻ là bà Võ Thị M, sinh năm 1952, trú tại thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (Đ sống cùng với mẹ). Khi về đến nhà, Đ hỏi mượn mẹ mình về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình, nhưng không được mẹ đồng ý, nên giữa hai mẹ con có lời qua tiếng lại với nhau. Lúc này, do bức xúc và không kiềm chế được bản thân nên Đ vào nhà lấy một bộ đánh lửa (còn gọi là khò) gắn một bình ga mini nhãn hiệu Namiluxi đi đến chuồng gia súc của gia đình, bật lửa đốt vào rơm khô để trong chuồng làm cháy toàn bộ rơm và chuồng gia súc. Phát hiện sự việc bà M cùng với người dân xung quanh đến dập lửa, nhưng Đ dùng cuốc đe dọa không cho người vào dập, sau đó lực lượng chức năng phối hợp với quần chúng nhân dân khống chế Đ đưa đến trụ sở UBND xã A làm việc.

Hậu quả: Chuồng gia súc bị cháy toàn bộ, trong đó có: 06 (sáu) cột gỗ táu hình vuông, có kích thước bằng nhau, mỗi cột cao 3,2m, có cạnh kích thước 0,15m; 06 (sáu) thanh gỗ táu (kẽ gỗ) có kích thước bằng nhau, mỗi thanh dài 3,3m, có cạnh kích thước 0,15m x 0,09m; 03 (ba) thanh gỗ táu (hạ), có kích thước bằng nhau, mỗi thanh dài 04m, có cạnh kích thước 0,13m x 0,09m; 07 (bảy) thanh gỗ táu (đòn tay), có kích thước bằng nhau, mỗi thanh dài 07m, có cạnh kích thước 0,08m x 0,08m; 38 (ba mươi tám) tấm bro xi măng loại 1,8m đã qua sử dụng; 07 (bảy) sào rơm khô.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 38/KLĐG-HĐĐGTS, ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện H xác định tổng giá trị thiệt hại các đồ vật, tài sản nêu trên là: 14.467.600đ (mười bốn triệu bốn trăm sáu mươi bảy nghìn sáu trăm).

* Vật chứng vụ án, gồm: 01 bình ga mini nhãn hiệu Namilux, bên ngoài vỏ bình ga sơn hoa văn nhiều màu sắc, bên trong bình ga còn có ga; 01 bộ đánh lửa (gọi là khò) nhãn hiệu Namilux đã qua sử dụng; 01 chiếc cuốc (gọi cuốc cào), cán cuốc bằng ống kim loại hình tròn dài 1,4m đường kính 0,035m, có 04 răng cuốc bằng kim loại mỗi răng daì 0,2m, cuốc đã qua sử dụng. Các vật chứng này đều đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Võ Thị M không yêu cầu bị cáo Trần Đình Đ bồi thường dân sự.

Tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKS-HS, ngày 14/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Trần Đình Đ về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đình Đ mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo (ngày 12/12/2020).

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Đình Đ vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Võ Thị M không yêu cầu bị cáo Trần Đình Đ bồi thường gì về mặt dân sự nên miễn xét.

- Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, để: Tịch thu, tiêu hủy, gồm: 01 bình ga mini nhãn hiệu Namilux, bên ngoài vỏ bình ga sơn hoa văn nhiều màu sắc, bên trong bình ga còn có ga và 01 bộ đánh lửa (gọi là khò) nhãn hiệu Namilux đã qua sử dụng vì đây là các vật liên quan đến tội phạm; Trả lại cho bà Võ Thị M 01 chiếc cuốc (gọi cuốc cào), cán cuốc bằng ống kim loại hình tròn dài 1,4m đường kính 0,035m, có 04 răng cuốc bằng kim loại mỗi răng daì 0,2m, cuốc đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bà M không liên quân đến hành vi phạm tội.

- Về án phí: Buộc bị cáo Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại thừa nhận nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố tại phiên tòa hôm nay là đúng và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những người tham gia tố tụng: Người chứng kiến anh Trần Đình T, anh Trần Đình N, ông Trần Quốc B và Nguyễn Xuân K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo, người bị hại và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử, xét thấy sự vắng mặt những người làm chứng này không ảnh hưởng đến quá trình làm sáng tỏ diễn biến trong vụ án nên quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết định tội, định khung, tính chất mức độ hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Đình Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian, địa điểm, đặc điểm tái ản bị thiệt hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định vào khoảng 16 giờ 15 phút, ngày 10/12/2020 Trần Đình Đ do có sử dụng rượu, ma túy và bức xúc với mẹ nên đã dùng khò ga mini đốt cháy chuồng gia súc của bà Võ Thị M tại thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh gây thiệt hại 14.467.600 đồng, hành vì đó đã phạm vào tội “Hủy hoại tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Thật đau lòng trong vụ án này khi giữa bị cáo với bị hại có quan hệ tình mẫu tử mẹ con, nhưng chỉ vì bức xúc chuyện gia đình, bị cáo đã sử dụng các chất kích thích nên đã châm lửa đốt chuồng gia súc, tài sản có giá trị của chính mẹ mình là bà Võ Thị M, khi những người dân đến dập lửa thì bị cáo dùng hung khí gây ngăn cản, hành vi đó làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, nhân thân, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, - Nhân thân và tình tiết tăng nặng: Bị cáo có nhân thân xấu từ năm 2004 đến năm 2013 đã hai lần vi phạm pháp luật, trong đó 01 lần bị xử phạt hành chính Cảnh cáo và 01 lần bị Tòa án tuyên phạt tù nhưng bị cáo không coi đây là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Trần Đình Đ có 01 tiền án, ngày 12/6/2018 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, bản án số: 12/2018/HSST, chấp hành xong bản án vào ngày 27/12/2018 nhưng chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì vậy Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Võ Thị M không yêu cầu bị cáo Trần Đình Đ bồi thường gì nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, để: Tịch thu, tiêu hủy, gồm: 01 bình ga mini nhãn hiệu Namilux, bên ngoài vỏ bình ga sơn hoa văn nhiều màu sắc, bên trong bình ga còn có ga và 01 bộ đánh lửa (gọi là khò) nhãn hiệu Namilux đã qua sử dụng vì đây là các vật liên quan đến tội phạm; Trả lại cho bà Võ Thị M 01 chiếc cuốc (gọi cuốc cào), cán cuốc bằng ống kim loại hình tròn dài 1,4m đường kính 0,035m, có 04 răng cuốc bằng kim loại mỗi răng daì 0,2m, cuốc đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bà M không liên quan đến hành vi phạm tội.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Đại diện UBND xã A tham gia phiên tòa phát biểu: Thời gian qua tình hình tội phạm ở địa phương diễn biến phức tạp và gia tăng, vì vậy mong muốn Tòa án có thế đưa nhiều vụ án xét xử lưu động hơn nữa để răn đe và giáo dục người dân. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo Trần Đình Đ là do nhận thức pháp luật kém, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm đề nghị xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định Hội đồng xét xử và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Về điều luật: Căn cứ khoản 1 Điều 178, khoản 1 Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

* Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trần Đình Đ phạm tội “Hủy hoại tài sản”. Xử phạt bị cáo Trần Đình Đ 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo (ngày 12/12/2020).

* Về vật chứng vụ án, gồm: - Tịch thu, tiêu hủy: 01 bình ga mini nhãn hiệu Namilux, bên ngoài vỏ bình ga sơn hoa văn nhiều màu sắc, bên trong bình ga còn có ga và 01 bộ đánh lửa (gọi là khò) nhãn hiệu Namilux đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bà Võ Thị M 01 chiếc cuốc (gọi cuốc cào), cán cuốc bằng ống kim loại hình tròn dài 1,4m đường kính 0,035m, có 04 răng cuốc bằng kim loại mỗi răng daì 0,2m, cuốc đã qua sử dụng.

(đặc điểm vật chứng nói trên như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 12 năm 2020).

* Về án phí: Buộc bị cáo Trần Đình Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/01/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;