TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2020/HSST ngày 23/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST-HS ngày 18/12/2020 đối với bị cáo:
Phạm Anh V, sinh ngày 15/4/1996; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Tổ 2, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ sơn; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 7/12; con bà Phạm Thị B; bị cáo có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/6/2020; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn T, xã N, thành phố Q Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 10/6/2020, Phạm Anh V nhận được điện thoại của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) có số thuê bao 0838000052 điện thoại hỏi mua 05 viên ma túy thuốc lắ và 01 hộp 5 chấm ma túy khay, V đồng ý bán ma túy cho T với số tiền 6.500.000 đồng và hẹn giao dịch mua bán ma túy tại sân Khách sạn T. Phạm Anh V lấy ma túy tại nhà trọ của mình rồi điều khiển xe môtô biển kiểm soát 76B1 - 403.72 đến Khách sạn T để bán ma túy cho T. Tại đây, trong lúc đang chờ T đến nhận ma túy thì bị lực lượng Công an tỉnh Quảng Ngãi phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Thu giữ trong người Phạm Anh V gồm: 01 túi nylon bên trong có chứa những hạt tinh thể màu trắng (V khai nhận là ma túy khay); 05 viên nén màu hồng (V khai nhận là ma túy thuốc lắc) và một số đồ vật liên quan.
Ngay sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Anh V tại AAA, đường N, tổ 2, phường N, TP Q, Phạm Anh V đã tự nguyện lấy bên trong chiếc giày phải có 01 vỏ bao thuốc lá 555, bên trong có chứa 02 túi nylon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (V khai nhận là ma túy khay); 01 túi nylon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng (V khai nhận là ma túy khay); 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa 06 viên nén hình vuông, màu hồng trên bề mặt mỗi viên nén có chữ “GUCCI” (V khai nhận là ma túy kẹo thuốc lắc), số ma túy này V khai nhận dùng để bán.
Tại bản kết luận giám định số: 422/KLGĐ-PC09, ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ngãi:
- 05 viên nén màu hồng, hình vuông, trên bề mặt mỗi viên nén có chữ “GUCCI” bên trong phong bì số 1 gửi giám định là ma túy; loại MDMA; khối lượng 1,98 gam.
- 06 viên nén màu hồng, hình vuông, trên bề mặt mỗi viên nén có chữ “GUCCI” bên trong phong bì số 3 gửi giám định là ma túy; loại MDMA, khối lượng 2,37 gam.
- Chất rắn màu trắng bên trong phong bì số 1 gửi giám định là ma túy; loại Ketamine; khối lượng 2.21 gam.
- Chất rắn màu trắng bên trong phong bì số 2 gửi giám định là ma túy; loại Ketamine, khối lượng 3,18 gam.
- Chất bột màu trắng bên trong phong bì số 4 gửi giám định là ma túy; loại Ketamine; khối lượng 0,33 gam.
MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, số thứ tự 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, số thứ tự 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Như vậy: Tổng khối lượng chất ma túy MDMA là 4,35 gam, tổng khối lượng chất ma túy Ketamine là 5,72 gam.
Căn cứ Khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy MDMA và Ketamine so với mức tối thiểu của từng chất quy định tại Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là: (4,35 gam/5 gam x 100%) + (5,72 gam/20 gam x 100%) = 115%. Vì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất quy định tại Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự lớn hơn 100% nên phải tiếp tục tính tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất quy định tại Khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ Khoản 3 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy MDMA và Ketamine so với mức tối thiểu của từng chất quy định tại Khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là (4,35 gam/30 gam x 100%) + (5,72 gam/100 gam x 100%) = 20,2% nhỏ hơn 100% nên thuộc trường hợp quy định tại điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
* Việc thu giữ tài liệu, đồ vật:
- Số ma túy và vỏ bao gói bên trong 01 phong bì số 422/PC09(GĐ- 2020) bên trong phong bì chứa ma túy Ketamine và ma túy MDMA sau giám định hoàn lại.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu xám, số máy MQAJ2LL/A: số seri: F2LW63D1JCLH, số IMEI: 354864090137325, bên trong thân máy có gắn 01 thẻ sim có dãy số seri 8984011509504023494, đây là điện thoại di động của Phạm Anh V dùng để liên lạc với số điện thoại 0838000052 để bán ma túy.
- 01 xe mô tô hiệu VISION, màu sơn trắng, biển kiểm soát 76B1 - 40372 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Anh V. Phạm Anh V đã sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
- 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Anh V; 02 (hai) chiếc giày màu trắng; 01 vỏ gói thuốc 555.
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
Bản cáo trạng số 80/QĐ-VKS, ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo Phạm Anh V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p Khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt bị cáo V từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; về vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa ma túy sau giám định hoàn lại, tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu xám, 01 xe mô tô hiệu VISION, màu sơn trắng, biển kiểm soát 76B1 - 403.72 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe; hoàn trả 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Anh V cho bị cáo V; hoàn trả cho chị Nguyễn Thị T số tiền 3.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Anh V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố: Ngày 10/6/2020, bị cáo V hẹn một người tên T tại sân Khách sạn T để bán ma túy cho T thì bị bắt quả tang, thu giữ trong người bị cáo 01 túi nilon bên trong có chứa những hạt tinh thể màu trắng, 05 viên nén màu hồng. Ngoài ra, thu giữ tại chỗ ở bị cáo 01 vỏ bao thuốc lá 555, bên trong có chứa 02 túi nylon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 túi nylon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa 06 viên nén hình vuông, màu hồng trên bề mặt mỗi viên nén có chữ “GUCCI”. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận khối lượng chất ma túy MDMA thu giữ của bị cáo V là 4,35 gam, khối lượng chất ma túy Ketamine thu giữ của bị cáo V là 5,72 gam. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Theo hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ về cách tính tổng khối lượng các chất ma túy không được quy định trong cùng một điểm của Điều 251 của Bộ luật Hình sự thì khối lượng các chất ma túy thu giữ của bị cáo V thuộc trường hợp điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, nên hành vi của bị cáo V đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án với thời hạn nhất định, cách ly bị cáo khỏi xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Số ma túy và vỏ bao gói bên trong 01 phong bì số 422/PC09(GĐ- 2020) bên trong chứa ma túy Ketamine và ma túy MDMA sau giám định hoàn lại; 02 chiếc giày màu trắng; 01 vỏ gói thuốc 555 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu xám, số máy MQAJ2LL/A: số seri: F2LW63D1JCLH, số IMEI: 354864090137325, bên trong thân máy có gắn 01 thẻ sim có dãy số seri 8984011509504023494 là điện thoại di động của Phạm Anh V dùng để liên lạc với số điện thoại 0838000052 để bán ma túy. Đây là công cụ phạm tội nên tịch thu và sung Ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) xe mô tô hiệu VISION, màu trắng, biển kiểm soát 76B1 - 403.72 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Anh V. Phạm Anh V đã sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy. Đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu và sung Ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phạm Anh V không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
- Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Bị cáo và chị T đều khai là tiền bị cáo bán mỹ phẩm giúp cho chị T, không có căn cứ xác định đây là tiền do phạm tội mà có nên hoàn trả cho chị T.
[6] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo V và đối tượng tên T, B:
Đối với đối tượng tên V bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi không có cơ sở để xử lý theo quy định.
Đối với các đối tượng tên T và B mua ma túy của bị cáo, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi không có cơ sở để xử lý theo quy định.
[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo, vật chứng của vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm p Khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, các Điều 38, 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử:
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Anh V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Phạm Anh V 07 (bảy) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu và tiêu hủy: Số ma túy và vỏ bao gói bên trong 01 phong bì số 422/PC09(GĐ-2020) bên trong chứa ma túy Ketamine và ma túy MDMA sau giám định hoàn lại; 02 chiếc giày màu trắng; 01 vỏ gói thuốc 555.
3.2. Tịch thu và sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu xám, số máy MQAJ2LL/A: số seri: F2LW63D1JCLH, số IMEI: 354864090137325, bên trong thân máy có gắn 01 thẻ sim có dãy số seri 8984011509504023494; 01 xe mô tô hiệu VISION, màu trắng, biển kiểm soát 76B1 - 403.72; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Anh V.
3.3. Trả lại cho bị cáo Phạm Anh V 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phạm Anh V.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/11/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi).
3.4. Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị T tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) (Theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 29/7/2020 tại Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi).
4. Buộc bị cáo Phạm Anh V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 04/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về