Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán,tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 04 /2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN,TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14.01.2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 431/2020/HSST ngày 18.12.2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 437/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Đ - Sinh năm 1953; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Hộ khẩu thường trú: 22A xóm L Ngh, Th Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội ; Chỗ ở: số 109 ngõ 424 Tr Kh Ch, phường Đ Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 05/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Khải H (đã chết); Họ tên mẹ: Trịnh Thị Ngh (đã chết); Họ tên chồng: Nguyễn Văn Th (đã chết); bị cáo có 02 con, sinh năm 1977 và 1983. Danh chỉ bản số: 725 lập ngày 09/9/2020 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp.

* Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 08/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

2. Nguyễn Anh T - Sinh năm 1983; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: 22A xóm L Ngh, Th Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội ; Chỗ ở: số 109 ngõ 424 Tr Kh Ch, phường Đ Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn Th (đã chết); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Đ; Họ tên vợ: Đàm Thị Th; bị cáo có 02 con, sinh năm 2011 và 2013. Danh chỉ bản số: 723 lập ngày 09/9/2020 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp.

* Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 08/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

3. Phan Ngọc H - Sinh năm 1978; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: số 243 K Ng, phường V T, quận H B Tr, thành phố Hà Nội; Nơi ở: Không có nơi ở cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Phan Xuân K; Họ tên mẹ: Lê Thị Hồng T; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ năm. Danh chỉ bản số: 721 lập ngày 09/9/2020 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp.

* Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: 01 tiền án: Ngày 24/3/2015, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 16/8/2016 (đã xóa án tích).

Bị bắt tạm giam ngày 08/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

1. Lê Văn Th ; Hộ khẩu thường trú : Thôn Xử Nhân, xã Thiệu Duy, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

2. Chị Nguyễn Ánh T – sinh năm 1977 ; Hộ khẩu thường trú : số 10 dãy A2 tập thể 173 C H N, phường Th L, quận H B Tr, thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

3. Chị Đàm Thị Th – sinh năm 1989; Hộ khẩu thường trú : 22A xóm L Ngh, Th Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội ; Chỗ ở: số 109 ngõ 424 Tr Kh Ch, phường Đ Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 50 phút ngày 08/09/2020, tại khu vực đầu ngõ 559 phố Kim Ngưu, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Tổ công tác Đội 3 - Phòng CSĐT tội phạm về ma túy- Công an TP Hà Nội phát hiện Phan Ngọc H đang điều khiển xe máy Honda Wave màu đen, BKS 29Y6 – 6361 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe và đưa về trụ sở Công an phường Vĩnh Tuy kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi quần phía sau bên phải của H: 02 (hai) gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng, H khai đó là 02 gói ma túy Heroin vừa mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng và đưa H về trụ sở để xác minh, làm rõ.

Ngoài ra, cơ quan công an thu giữ của H:

- 01 (một) điện thoại di động Nokia, Imei: 355364043357392 - 01 (một) xe máy BKS 29Y6 – 6361, SK: 408947, SM: 6408984.

Tiếp đó, khoảng 13 giờ 00 phút ngày 08/09/2020, tại khu vực ngã ba vòng xuyến Phố Minh Khai - Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Tổ công tác Đội 3 - Phòng CSĐT tội phạm về ma túy - Công an TP Hà Nội phát hiện Lê Văn Th (sinh năm 1977, trú tại Thôn Xử Nhân, xã Thiệu Duy, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) đang điều khiển xe máy Honda Wave, BKS: 36B7-258.83 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe và đưa về trụ sở Công an phường Vĩnh Tuy để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Thanh 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng, Thanh khai đó là gói ma tuý Heroin vừa mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng và đưa Thanh về trụ sở để làm rõ.

Ngoài ra, cơ quan công an thu giữ của Th:

- 01 (một) xe máy BKS 36B7 - 258.83, SK: 280511, SM: 1142487.

Tại Cơ quan điều tra, Phan Ngọc H khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08/09/2020, H đi xe máy đến số 109 ngõ 424 Trần Khát Chân, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội. Tại đây, H gặp và mua của người phụ nữ tên Đ 02 gói ma tuý Heroin giá 200.000đ. Sau đó, H cất giấu 02 gói heroin vào túi quần phía sau bên phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi H đi đến khu vực đầu ngõ 559 Kim Ngưu, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra, bắt giữ.

Lê Văn Th khai nhận: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 08/09/2020, Thanh đi xe máy đến số 109 ngõ 424 Trần Khát Chân, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tại đây, Thanh gặp và mua của người đàn ông tên T 01 gói Heroin giá 100.000 đồng. Sau đó, Th cất giấu gói heroin vào túi quần phía trước bên trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi Th đi đến khu vực ngã ba vòng xuyến Phố Minh Khai – Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra, bắt giữ.

Căn cứ lời khai, kết quả nhận dạng của Phan Ngọc H, Lê Văn Th, ngày 8/9/2020, Cơ quan CSĐT- Công an TP Hà Nội thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Thị Đ tại số 109 ngõ 424 Trần Khát Chân, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Quá trình khám xét, Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Anh T có mặt tại nhà.

Thu giữ tại khu vực gần cửa ra vào tầng 1:

- 02 (hai) gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng.

Thu giữ tại phòng ngủ tầng 3 của Nguyễn Anh T: 01 túi nilong màu vàng bên trong - 11 (mười một) gói nilong màu hồng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng, 05 (năm) gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng Thu giữ của Nguyễn Thị Đ: 01 ví cầm tay màu đen bên trong chứa:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, Imei: 864927044612629 - Số tiền 24.000.000đ (hai mươi tư triệu đồng); Thu giữ của Nguyễn Anh T:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone màu đen- xám, Imei: 358806053917520 , - Số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngày 08/09/2020, Cơ quan CSĐT-Công an TP Hà Nội đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 826, 827, 828 yêu cầu giám định số vật chứng thu giữ của Phan Ngọc H, Lê Văn Th, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T.

Bản kết luận giám định số 8113/KLGĐ-PC09 ngày 15/09/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận về số tang vật thu giữ của Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T:

- Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu vàng Đu là ma túy loại heroin, tổng khối lượng 0,181 gam Bên trong 01 túi nilong màu vàng có:

- Chất bột màu trắng bên trong 11 gói nilong màu hồng đều là ma túy loại heroin, tổng khối lượng 1,652 gam - Chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy bạc màu vàng đều là ma túy loại heroin, tổng khối lượng 0,512 gam Bản kết luận giám định số 8114/KLGĐ-PC09 ngày 15/09/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận về số tang vật thu giữ của Phan Ngọc H:

- Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu vàng Đu là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,204 gam.

Bản kết luận giám định số 8115/KLGĐ-PC09 ngày 15/09/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận về số tang vật thu giữ của Lê Văn Th:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu vàng là ma túy loại heroin, khối lượng 0,082 gam Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Đ khai nhận: Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Đ nảy sinh ý định bán ma túy để kiếm lời. Khoảng giữa tháng 8/2020, khi Đ đang ở nhà thì có một người đàn ông không quen biết đến gặp và bán cho Đ tổng cộng 250 gói ma túy Heroin, mỗi gói kích thước khoảng 0,5x 0,5 cm được bọc trong các túi nilon màu vàng và màu hồng với giá 10.000.000 đồng. Sau đó, Đ bắt đầu bán lẻ ma túy cho khách nghiện tại nhà, mỗi ngày Đ bán ma túy cho khoảng từ 05 - 07 khách nghiện, mỗi khách mua từ khoảng 1-2 gói, giá 100.000đ/ 01 gói ma tuý, Đ được hưởng lợi 60.000 đồng/01 gói.

Nguyễn Anh T biết Đ bán ma tuý và giúp bán cho khách nghiện khi Đ đi vắng. Từ khoảng giữa tháng 08/2020 đến ngày 8/9/2020, Đ và T đã bán được tổng cộng 232 gói ma túy Heroin với giá 100.000 đồng/ 01 gói, hưởng lợi số tiền là 13.920.000 đồng.

Khoảng 8h00 ngày 08/09/2020, Đ bán cho 01 nam giới mặc áo grab màu xanh 02 (hai) gói heroin với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Sau đó, Đ có việc đi vắng, Nguyễn Anh T đã bán hộ cho khách nghiện 02 (hai) gói heroin. Khoảng 15h00 cùng ngày, khi Đ về nhà, T có đưa lại cho Đ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền bán ma túy và nói với Đ đã cất giấu 16 gói ma túy trên phòng ngủ tầng 3 của T, còn 2 gói để ở cửa ra vào. Lúc này thì cơ quan công an thi hành lệnh khám xét chỗ ở và thu giữ toàn bộ 18 gói ma túy trên.

Quá trình điều tra, Nguyễn Anh T khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Đ. T đã giúp Đ bán ma tuý cho khách nghiện từ khoảng giữa tháng 8/2020, mỗi ngày T bán cho khoảng 3-5 khách nghiện, sau đó T đưa lại tiền bán ma tuý cho Đ để lo sinh hoạt hàng ngày.

Đối với người đàn ông bán ma tuý cho ma tuý cho Nguyễn Thị Đ vào khoảng giữa tháng 08/2020 , Đ khai không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.

Đối với các đối tượng mua ma tuý của Nguyễn Anh T, Nguyễn Thị Đ, quá trình điều tra, Đ, T khai không biết nhân thân, lai lịch các đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.

Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia màu vàng, Imei: 355364043357392, lắp sim số: 0888451326 thu giữ của Phan Ngọc H, quá trình điều tra H khai chiếc điện thoại trên dùng để liên lạc, không liên quan đến hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 29Y6 – 6361, SK:

408947, SM: 6408984 tạm giữ của Phan Ngọc H, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên đã ra Quyết định tách phần hồ sơ, tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh , làm rõ.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 36B7 – 258.83, SK: 280511, SM: 1142487 tạm giữ của Lê Văn Th, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên đã ra Quyết định tách phần hồ sơ, tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh, làm rõ.

Đối với chiếc ví cầm tay màu đen thu giữ của Nguyễn Thị Đ: Đ khai là của Đ dùng để cất giấy tờ tùy thân.

Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Redmi màu xanh, Imei: 864927044612629, lắp sim số: 0943221327 thu giữ của Nguyễn Thị Đ : Đ khai là của Đ dùng để liên lạc với gia đình, bạn bè, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý.

Đối với số tiền 24.000.000 đồng (Hai mươi tư triệu đồng) thu giữ của Nguyễn Thị Đ, quá trình điều tra, Đ khai số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) là tiền hưởng lợi bán ma túy của Đ; còn số tiền 23.000.000đ (Hai mươi ba triệu đồng) là của chị Nguyễn Ánh T (SN 1977; Nơi cư trú: Số 10 dãy A2 Tập thể 173 C H N, phường Th L, quận H B Tr, Hà Nội) cho Đ vay để trả nợ vào khoảng đầu tháng 09/2020.

Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone màu đen-xám, Imei: 358806053917520, lắp sim số: 0386465412 thu giữ của Nguyễn Anh T : T khai của T dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý.

Đối với số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Nguyễn Anh T, quá trình điều tra, T khai số tiền trên của vợ T là chị Đàm Thị Th (SN 1989 ; Nơi cư trú : 109 ngõ 424 Tr Kh Ch, phường Đ Nh, quận H B Tr, Hà Nội).

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKSHBT-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, truy tố bị cáo Phan Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ một phần hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng giữ quan điểm truy tố với các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T và Phan Ngọc H như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đã Đ nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, xử phạt Nguyễn Thị Đ mức án từ 9 đến 10 năm tù, phạt tiền 5.000.000 đồng; xử phạt Nguyễn Anh T mức án từ 8 đến 9 năm tù, phạt tiền 5.000.000 đồng; Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 xử phạt Phan Ngọc H mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Ngoài ra về xử lý vật chứng, Đ nghị tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của các bị cáo và Lê Văn Th; Trả lại các điện thoại cho các bị cáo Đ, T, H do không có căn cứ thể hiện liên quan đến hành vi phạm tội; Trả lại ví cầm tay cho bị cáo Đ; Tịch thu sung công quỹ số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Đ do mua bán ma túy mà có; Trả lại số tiền 23.000.000 đồng cho chị Nguyễn Ánh T; Trả lại số tiền 1.500.000 đồng cho chị Đàm Thị Th.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện Đu hợp pháp.

[2]. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, bằng vật chứng thu giữ của các bị cáo, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:

- Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Anh T có hành vi mua bán trái phép 0,204 gam ma túy Heroin cho Phan Ngọc H, 0,082 gam ma túy Heroin cho Lê Văn Th và tàng trữ 2,345 gam ma túy Heroin với mục đích mua bán kiếm lời. Ngoài ra, các bị cáo còn chia lẻ ma túy để mua bán nhiều lần tại nhà từ giữa tháng 08/2020 đến ngày 08/9/2020 cho các đối tượng nghiện để kiếm lời. Bị cáo Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Phan Ngọc H có hành vi tàng trữ trái phép 0,204 gam ma túy loại Heroin với mục đích để sử dụng. Bị cáo Phan Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm xói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác, xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh an toàn, trật tự xã hội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[4]. Khi xem xét áp dụng mức hình phạt, căn cứ nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của các bị cáo trong việc thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy rằng:

- Bị cáo Nguyễn Thị Đ: Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thị Đ đóng vai trò chính. Bị cáo là người mua ma túy về để bán tại nhà với mục đích kiếm lời, số lần mua bán ma túy tại nhà của Đ là lớn, xác định từ giữa tháng 08/2020 đến ngày 08/9/2020 đã mua bán lẻ 232 gói ma túy nên cần áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đây là lần đầu bị cáo bị đưa ra truy tố, xét xử. Bị cáo là người cao tuổi. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Nguyễn Anh T: Bị cáo biết mẹ mình là Nguyễn Thị Đ bán ma túy và đã nhiều lần giúp Đ bán cho khách khi Đ đi vắng, mỗi ngày T bán cho khoảng 3-5 đối tượng nghiện, số tiền thu được T đưa lại cho Đ để lo sinh hoạt hàng ngày, vai trò của bị cáo là đồng phạm, giúp sức tích cực cho Nguyễn Thị Đ nên cần xem xét khi áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đây là lần đầu bị cáo bị đưa ra truy tố, xét xử. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Phan Ngọc H: Nhân thân của bị cáo trước đây có 01 tiền án: năm 2015 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai – TP Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về Tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy đã được xóa án tích nhưng việc tiếp tục phạm tội lần này thể hiện sự coi thường kỉ cương, pháp luật của bị cáo, do vậy cần xem xét khi xác định mức hình phạt. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, lượng ma túy bị cáo tàng trữ không nhiều, do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo đều không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 2,345 gam ma túy loại heroin thu giữ của Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Anh T;

+ Tịch thu tiêu hủy 0,204 gam ma túy loại heroin thu giữ của Phan Ngọc H;

+ Tịch thu tiêu hủy 0,082 gam ma túy loại heroin thu giữ của Lê Văn Th;

+ Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng thu được của Nguyễn Thị Đ là số tiền mua bán ma túy mà có;

+ Trả lại 01 ví cầm tay thu giữ của Nguyễn Thị Đ do không liên quan đến hành vi phạm + Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Redmi màu xanh, Imei: 864927044612629, lắp sim số: 0943221327 thu giữ của Nguyễn Thị Đ : Đ khai là của Đ dùng để liên lạc với gia đình, bạn bè, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Do Đ mua bán ma túy tại nhà, không có căn cứ thể hiện điện thoại trên có liên quan đến hành vi phạm tội của Đ nên trả lại điện thoại trên cho Nguyễn Thị Đ.

+ Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone màu đen-xám, Imei: 358806053917520, lắp sim số: 0386465412 thu giữ của Nguyễn Anh T: T khai của T dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Do T mua bán ma túy tại nhà, không có căn cứ thể hiện điện thoại trên có liên quan đến hành vi phạm tội của T nên trả lại điện thoại trên cho Nguyễn Anh T.

+ Đối với chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia màu vàng, Imei: 355364043357392, lắp sim số: 0888451326 thu giữ của Phan Ngọc H, quá trình điều tra H khai chiếc điện thoại trên dùng để liên lạc ngoài ra không có căn cứ thể hiện điện thoại này liên quan đến hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý nên trả lại cho Phan Ngọc H.

+ Đối với số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của Nguyễn Anh T: Có căn cứ thể hiện đây là số tiền của chị Đàm Thị Th – vợ của T dùng để chi tiêu sinh hoạt gia đình nên trả lại số tiền trên cho chị Thu.

+ Đối với số tiền 23.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Đ: Đ khai đây là tiền con gái Đ là chị Nguyễn Ánh T đưa để trả nợ, chị Tuyết cũng có lời khai như vậy và Đ nghị Tòa án trả lại số tiền trên cho chị. Có căn cứ thể hiện đây là số tiền của chị Tuyết nên trả lại số tiền trên cho chị Tuyết.

[7]. Về các vấn Đ khác:

Theo như hồ sơ vụ án thể hiện: Từ khoảng giữa tháng 08/2020 đến ngày 8/9/2020, Đ và T đã bán được tổng cộng 232 gói ma túy Heroin với giá 100.000 đồng/ 01 gói, hưởng lợi 60.000 đồng/gói, tổng số tiền thu lời bất chính là 13.920.000 đồng. Số tiền này Đ là người cất giữ nên cần truy thu số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy này. Đ đã bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 1 triệu đồng nên cần truy thu thêm số tiền là: 12.920.000 (mười hai triệu chín trăm hai mươi nghìn) đồng.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,082 gam chất ma túy loại heroin của Lê Văn Th, mục đích để sử dụng. Do nhân thân của Thanh chưa có tiền án, tiền sự nên không đủ căn cứ xử lý hình sự. Ngày 08/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Văn Th nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người đàn ông bán ma tuý cho ma tuý cho Nguyễn Thị Đ vào khoảng giữa tháng 08/2020 , Đ khai không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với các đối tượng mua ma tuý của Nguyễn Anh T, Nguyễn Thị Đ, quá trình điều tra, Đ, T khai không biết nhân thân, lai lịch các đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 29Y6 – 6361, SK:

408947, SM: 6408984 tạm giữ của Phan Ngọc H, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên đã ra Quyết định tách phần hồ sơ, tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh , làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 36B7 – 258.83, SK: 280511, SM: 1142487 tạm giữ của Lê Văn Th, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên đã ra Quyết định tách phần hồ sơ, tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh, làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí, quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo Phan Ngọc H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt : Nguyễn Thị Đ: 8 (Tám) năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08.9.2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Nguyễn Anh T: 7 (Bảy) năm 3 (ba) tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08.9.2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Phan Ngọc H: 18 (Mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08.9.2020.

3. Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 2,345 gam ma túy loại heroin thu giữ của Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Anh T bên trong 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T;

+ Tịch thu tiêu hủy 0,204 gam ma túy loại heroin bên trong 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Phan Ngọc H;

+ Tịch thu tiêu hủy 0,082 gam ma túy loại heroin bên trong 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên và đối tượng Lê Văn Th;

+ Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng thu được của Nguyễn Thị Đ là số tiền mua bán ma túy mà có;

+ Trả lại 01 ví cầm tay màu đen cho Nguyễn Thị Đ;

+ Trả lại cho Nguyễn Thị Đ: Chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Redmi màu xanh, Imei:

864927044612629.

+ Trả lại cho Nguyễn Anh T : Chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone màu đen-xám, Imei:

358806053917520.

+ Trả lại cho Phan Ngọc H: Chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia màu vàng, Imei:

355364043357392.

+ Trả lại cho chị Đàm Thị Th (Hộ khẩu thường trú : 22A xóm L Ngh, Th Nh, quận H B Tr, thành phố Hà Nội số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng.

+ Trả lại cho chị Nguyễn Anh Tuyết (Hộ khẩu thường trú : số 10 dãy A2 tập thể 173 C H N, phường Th L, quận H B Tr, thành phố Hà Nội) số tiền 23.000.000 (Hai mươi ba triệu) đồng.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng – thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 18/12/2020, tang vật số 84/21 và Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 02/01/2021.

+ Truy thu đối với Nguyễn Thị Đ số tiền 12.920.000 (mười hai triệu chín trăm hai mươi nghìn) đồng.

4. Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 1 phần I Mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết: Các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Anh T, Phan Ngọc H mỗi người phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Ánh T, chị Đàm Thị Th có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Lê Văn Th có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán,tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;