Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử TAND huyện Chư Păh – Tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:106/2020/HSST-HNGĐ, ngày 13 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp: Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phien tòa ngày 01/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Hà P, sinh năm 1989 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Ia Sik, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ia Sik, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 25 tháng 9 năm 2020 của chị nộp ngày 12 tháng 10 năm 2020, bản tự khai, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Võ Thị Hà P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào năm 2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T thường xuyên chơi cờ bạc làm tiêu tán tài sản gia đình, nhiều lần còn đánh đập, chửi bới và xúc phạm chị. Việc gia đình không bao giờ hỏi ý kiến chị. Chị đã nhiều lần góp ý nhưng anh T không thay đổi, thời gian gần đây còn vi phạm pháp luật và bị Tòa án huyện Ia Grai xét xử về tội “Đánh bạc”. Cuộc sống gia đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện nay tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 19/01/2012 và Nguyễn Tuệ A2, sinh ngày 14/4/2014. Ly hôn, chị có nguyện vọng nuôi cả hai con chung.

Hiện tại chị là lao động phổ thông và buôn bán thêm, công việc ổn định và có thu nhập, anh T hiện đang không có công việc làm ổn định hay chơi cờ bạc nên không đảm bảo điều kiện để nuôi dạy con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chị và anh T tự thỏa thuận giải quyết với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

-Bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày tại bản tự khai, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 05/11/2020:

Anh và chị Võ Thị Hà P tự nguyện tìm hiểu đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào năm 2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy có mâu thuẫn trong cuộc sống nhưng bản thân anh vẫn rất yêu thương vợ. Ở địa phương, vợ chồng anh chị cũng được nhiều người yêu quý. Cách đây một thời gian, anh có chơi cờ bạc nhưng chỉ chơi vui chứ không gây nợ nần gì cho vợ con, bản thân anh cũng không biết lý do gì chị P yêu cầu ly hôn. Nay chị P yêu cầu ly hôn với anh, anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Bảo An, sinh ngày 19/01/2012 và Nguyễn Tuệ An, sinh ngày 14/4/2014. Vì anh không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần con chung và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên hòa giải hai lần, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh T đều không đến Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, phát biểu quan điểm như sau:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 93, 94, 95, 96, 97, 195, 196, 203, 220 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa Thẩm phán, HĐXX, Thư ký tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình theo đúng quy định bộ luật Tố tụng dân sự.

-Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, do đó HĐXX vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

*Về hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật HNGĐ, đề nghị HĐXX chấp nhận cho chị Võ Thị Hà P được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

*Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ; xét nguyện vọng của chị P, nguyện vọng 02 cháu Bảo A1, Tuệ A2 và thực tế chị P hiện đang chăm sóc nuôi dưỡng các con, đề nghị HĐXX giao 02 con chung chưa đủ tuổi thành niên cho chị P chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên không xem xét.

*Tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: chị P, anh T không yêu cầu nên không xem xét.

* Về án phí: Buộc chị P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Võ Thị Hà P yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung với anh Nguyễn Văn T, có nơi cư trú là thôn Ia Sik, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất, giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Hà P và anh Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn tại UBND xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào năm 2011. Việc kết hôn của anh chị đúng theo quy định pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, chị P và anh T xảy ra mâu thuẫn do anh T chơi cờ bạc làm tiêu tán tài sản gia đình. Nhiều lần còn đánh đập, chửi bới và xúc phạm chị. Cuộc sống gia đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên chị và anh T đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, anh T đã tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng cho rằng vẫn còn yêu thương chị P, không đồng ý ly hôn. Tòa án đã tổ chức nhiều lần hòa giải, phân tích, thuyết phục cho hai bên thời gian để khắc phục những khuyết điểm đoàn tụ nhưng anh T không tham gia hòa giải, chị P nhất định yêu cầu ly hôn không có ý chí muốn hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với anh T. Xét thấy mâu thuẫn của chị P, anh T trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị P ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: chị P và anh T có 02 con chung là: Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 19/01/2012 và Nguyễn Tuệ A2, sinh ngày 14/4/2014. Ly hôn, chị P có nguyện vọng nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy yêu cầu trên của chị P là chính đáng, vì con chung còn nhỏ, cần bàn tay chăm sóc của người mẹ, nguyện vọng của 02 cháu Tuệ A2 và Bảo A1 mong muốn ở với chị P. Chị P ngoài lao động phổ thông còn buôn bán có thu nhập và từ trước đến nay chị P vẫn một mình nuôi con ổn định. Vì vậy, việc chấp nhận yêu cầu được nuôi cả hai con chung của chị P là có căn cứ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Võ Thị Hà P không yêu cầu anh Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[3]Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và quy định tại Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Võ Thị Hà P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

-Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Hà P.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: chị Võ Thị Hà P được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

1.2 Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 19/01/2012 và Nguyễn Tuệ A2, sinh ngày 14/4/2014 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân.

1.3 Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung: Chị P không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Buộc chị Võ Thị Hà P phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp trước đây theo biên lai số 0010213 ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Păh. Chị Võ Thị Hà P đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự” 

3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/4/2021), nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xem xét phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;