Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 01 năm 2021 tại hội trường Toà án nhân dân huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 408/2020/TLST- HNGĐ, ngày 26/11/2020, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 08/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Võ Thị T, sinh năm 1974; Địa chỉ: Số nhà 617/6, ấp TQ, xã TP, huyện LVg, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là Luật sư Phạm Văn Kết- Văn Phòng luật sư Phạm Văn Kết- Thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Lê Văn Bé B, sinh năm 1974; Địa chỉ: Số nhà 617D/6, ấp TQ, xã TP, huyện LVg, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng: Nguyễn Thị Kim C, sinh năm: 1984; Địa chỉ: ấp HTĐ, xã LHB, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa. Riêng đối với người làm chứng có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ly hôn; Các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cũng như tại phiên toà nguyên đơn Võ Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Võ Thị T và Lê Văn Bé B sống chung với nhau từ năm 1995, có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2002, tại UBND xã TP, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cải, Lê Văn Bé B thường hay hâm dọa, đánh Võ Thị T, chị Thương có nhờ chính quyền địa phương giải quyết nhưng không có lập biên bản, vợ chồng không quan tâm lẫn nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, hai vợ chồng nhiều lần sống xa nhau rồi về sống chung lại và lần gần đây nhất là ly thân từ tháng 4 năm 2020 đến nay. Nay Võ Thị T không còn tình cảm với Lê Văn Bé B, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với Lê Văn Bé B.

Về con chung: Có hai con chung tên là Lê Hoàng Tuấn, sinh ngày 29/9/1995 và Lê Hoàng Trường, sinh ngày 25/11/2000. Hai con chung đã trưởng thành, Võ Thị T không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung khi ly hôn: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung khi ly hôn: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về yêu cầu của Lê Văn Bé B cắt hộ khẩu của Lê Hoàng Tuấn ra khỏi hộ của Lê Văn Bé B thì Võ Thị T đã liên hệ Công an xã TP nhưng không cắt hộ khẩu được lý do Tuấn đã trên 18 tuổi phải do Tuấn cắt hộ khẩu và phải có hộ khẩu để nhập vào mới cắt hộ khẩu được nên tự Võ Thị T không thể cắt hộ khẩu Lê Hoàng Tuấn được.

* Theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ bị đơn Lê Văn Bé B có đơn xin đình lại về việc ly hôn ghi ngày 20/12/2020, biên bản hòa giải ngày 16/12/2021 cũng như tại phiên tòa Lê Văn Bé B trình bày:

Về thời gian sống chung, vợ chồng có đăng ký kết hôn là đúng như Võ Thị T trình bày. Lê Văn Bé B và Võ Thị T có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2002, tại UBND xã TP, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, chỉ mới phát sinh mâu thuẫn thời gian gần đây, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, do vợ thường hay đi với người này người kia nên ghen tuông, thỉnh thoảng có cải nhau trong lúc nóng giận Lê Văn Bé B có lớn tiếng gây ồn ào ở địa phương, có đốt đồ của Võ Thị T, Võ Thị T và Lê Văn Bé B đã ly thân khoảng 03 tháng nay. Trong Biên bản hòa giải ngày 16/12/2021 và Đơn xin đình lại về việc ly hôn ghi ngày 20/12/2020 Lê Văn Bé B đồng ý ly hôn Võ Thị T nếu Võ Thị T cắt hộ khẩu Lê Hoàng Tuấn ra khỏi hộ của Lê Văn Bé B lý do là Tuấn thường hay chửi, đánh Lê Văn Bé B, khi nào Võ Thị T cắt hộ khẩu của Lê Hoàng Tuấn xong thì Lê Văn Bé B mới đồng ý ký tên ly hôn Võ Thị T. Nhưng tại phiên tòa hôm nay Lê Văn Bé B muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm, còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn Võ Thị T.

Về con chung: Có hai con chung tên là Lê Hoàng Tuấn, sinh ngày 29/9/1995 và Lê Hoàng Trường, sinh ngày 25/11/2000. Hai con chung đã trưởng thành, Lê Văn Bé B không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung khi ly hôn: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung khi ly hôn: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Võ Thị T là Luật sư Phạm Văn Kết trình bày:

Võ Thị T với Lê Văn Bé B sống chung từ năm 1995, có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2002, tại UBND xã TP, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không quan tâm lẫn nhau, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, Võ Thị T và Lê Văn Bé B đã ly thân từ tháng 04 năm 2020 đến nay, tại buổi hòa giải ngày 16/12/2020 Lê Văn Bé B đồng ý ly hôn và theo đơn xin đình lại về việc ly hôn ghi ngày 20/12/2020 Lê Văn Bé B yêu cầu Võ Thị T cắt hộ khẩu của Lê Hoàng Tuấn xong thì Lê Văn Bé B mới đồng ý ký tên ly hôn Võ Thị T, việc cắt hộ khẩu Lê Hoàng Tuấn là thủ tục hành chính, Tuấn đã trưởng thành nên chị Thương không thể cắt hộ khẩu Tuấn theo yêu cầu của anh Lê Văn Bé B được, anh Bé Ba có hành vi bạo lực gia đình đối với Võ Thị T xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Võ Thị T . Về con đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về tài sản, nợ khi ly hôn không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu Võ Thị T được ly hôn Lê Văn Bé B, về con đã trưởng thành, về tài sản, nợ khi ly hôn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Người làm chứng Nguyễn Thị Kim C có văn bản ý kiến Tờ nhân chứng nộp Tòa án ngày 17/12/2020: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 17/12/2020 chị Cương có mặt tại Công an xã TP có chứng kiến anh Lê Văn Bé B hỏi chị Võ Thị T về việc cắt hộ khẩu Lê Hoàng Tuấn, chị Thương không cắt được hộ khẩu của Tuấn nên anh Bé Ba không cho chị Thương về, giằn co rồi nói chị Thương về có gì gáng chịu, còn đòi đập, đánh chị Võ Thị T.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung phát biểu quan điểm:

- Về phần thủ tục: Từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng pháp luật.

- Về phần nội dung: Về đường lối giải quyết vụ án, Đại diện viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn Võ Thị T; về con chung do Võ Thị T và Lê Văn Bé B không yên cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xém giải quyết; về tài sản và nợ khi ly hôn các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết là có cơ sở, phù hợp thực tế, đúng quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Võ Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn giữa Võ Thị T với Lê Văn Bé B, đây là vụ án “Ly hôn”. Bị đơn cư trú tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, cho nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Võ Thị T và Lê Văn Bé B sống chung từ năm 1995, có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2002, tại UBND xã TP, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, theo quy định, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống Lê Văn Bé B với Võ Thị T thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, do ghen tuông nên anh Lê Văn Bé B có chửi, hâm dọa, đánh Võ Thị T, vợ chồng ly thân từ tháng 04 năm 2020 đến nay, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng Võ Thị T nhất quyết ly hôn, Lê Văn Bé B đồng ý ly hôn nhưng với yêu cầu là cắt hộ khẩu của Lê Hoàng Tuấn ra khỏi hộ của Lê Văn Bé B, Hội đồng xét xử đã giải thích cho Lê Văn Bé B hiểu đây là thủ tục hành chính, các đương sự tự liên hệ Công an xã TP để giải quyết, việc cắt hộ khẩu của Lê Hoàng Tuấn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tại phiên tòa anh Lê Văn Bé B không đồng ý ly hôn muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng xét thấy anh Lê Văn Bé B có hành vi bạo lực gia đình, có hâm dọa, đánh chị Võ Thị T, chị Võ Thị T nhất quyết ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa Võ Thị T với Lê Văn Bé B xảy ra ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của Võ Thị T là có căn cứ, đúng theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Có hai con chung tên là Lê Hoàng Tuấn, sinh ngày 29/9/1995 và Lê Hoàng Trường, sinh ngày 25/11/2000. Hai con chung đã trưởng thành, Võ Thị T, Lê Văn Bé B không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đăt thành vấn đến xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ khi ly hôn: Võ Thị T và Lê Văn Bé B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án khác theo quy định pháp luật.

[5] Về tiền tạm ứng án phí, án phí: Nguyên đơn Võ Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân là có căn cứ.

[6] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.

[7] Xét thấy ý kiến phát biểu, tranh luận của luật sư Phạm Văn Kết là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của luật sư Phạm Văn Kết.

[8] Xét thấy ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên thống nhất đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Võ Thị T. Võ Thị T được ly hôn Lê Văn Bé B.

2. Án phí và tạm ứng án phí sơ thẩm:

Võ Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân là 300.000 đồng. Được khấu trừ 300.000 đồng vào tiền tạm ứng án phí mà Võ Thị T đã nộp theo biên lai số 0010585, ngày 24/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Võ Thị T đã nộp xong).

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (28/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;