Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 231/2020 TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp về hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST- DS ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị N, sinh năm 1986 Trú tại: Thôn 15, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (có mặt)

- Bị đơn: Ông Lê Đình C Trú tại: Thôn 15, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt do tuyên bố mất tích)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là bà Hồ Thị N trình bày:

Tôi và ông Lê Đình C quen biết nhau qua người mai mối, có thời gian tìm hiểu, yêu thương, tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K (nay là huyện C), tỉnh Đ vào ngày 21/5/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ tôi ở thôn 15, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, đến đầu năm 2013 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, do đó ông Lê Đình C đột ngột bỏ nhà đi không rõ lý do. Từ đó đến nay, tôi đã nhiều lần tìm kiếm, nhưng đều không có tin tức của ông C. Vì vậy tôi làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Lê Đình C mất tích.

Tại quyết định số: 08/2020/QĐST-VDS ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin đã tuyên bố ông Lê Đình C mất tích có hiệu lực pháp luật, do đó tôi tiếp tục làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn với ông Lê Đình C theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chúng tôi có 01 con chung cháu Lê Nguyên A, sinh ngày 27/7/2008 hiện đang ở với tôi. Nếu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn thì tôi có nguyện vọng được nuôi cháu Lê Nguyên A đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Lê Đình C đã đi khỏi địa phương từ năm 2013 và bị Tòa án nhân dân huyện C tuyên bố mất tích ngày 25 tháng 11 năm 2020. Cho đến nay, ông Lê Đình C vẫn chưa trở về địa phương, cũng không có tin tức gì của ông C do đó Tòa án không lấy lời khai và không tiến hành hòa giải được .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết: Bà Hồ Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lê Đình C, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và bị đơn ông Lê Đình C có nơi cư trú cuối cùng tại huyện C nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đ.

Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử…v.v là đảm bảo theo quy định của pháp luật tố tụng nhưng do ông Lê Đình C bị tuyên bố mật tích đến nay vẫn chưa về địa phương nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt ông Lê Đình C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị N và ông Lê Đình C chung sống với nhau tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K (nay là huyện C), tỉnh Đ vào ngày 21/5/2006, là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Sau khi kết hôn ông, bà chung sống tại nhà bố mẹ bà Hồ Thị N ở thôn 15, xã E, huyện C, đến đầu năm 2013 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, do đó ông C bỏ nhà đi không rõ lý do. Từ đó đến nay, bà N đã nhiều lần tìm kiếm nhưng đều không có tin tức của ông Lê Đình C. Vì vậy bà N làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Lê Đình C mất tích.

Tại quyết định số: 08/2020/QĐST-VDS ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin tuyên bố ông Lê Đình C mất tích đã có hiệu lực pháp luật.

Sau khi có quyết định tuyên bố ông Lê Đình C mất tích có hiệu lực pháp luật thì bà Hồ Thị N tiếp tục làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được xin ly hôn với ông Lê Đình C, Hội đồng xét xử nhận thấy theo lời trình bày của bà Hồ Thị N thì vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng không tự hòa giải được nên ông Lê Đình C đã bỏ nhà đi biệt tích, Hội Đồng xét xử nhận thấy tình cảm vợ chồng của bà Hồ Thị N và ông Lê Đình C đã đến lúc trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Hồ Thị N, cho bà Hồ Thị N được ly hôn với ông Lê Đình C.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có 01 con chung là cháu Lê Nguyên A, sinh ngày 27/7/2008 hiện đang ở với bà N, bà Hồ Thị N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu đến tuổi trưởng thành là chính đáng cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Hồ Thị N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

 [4] Về tài sản và nợ chung: Bà N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Hồ Thị N phải chịu án phí dấn sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 147, 235, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị N. Cho bà Hồ Thị N được ly hôn với ông Lê Đình C.

Về con chung: Giao cháu Lê Nguyên A, sinh ngày 27/7/2008 cho bà Hồ Thị Nđược tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu đến tuổi trưởng thành.

Khi ông Lê Đình C về địa phương có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Hồ Thị N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

quyết.

Về tài sản và nợ chung: Bà Hồ Thị N không yêu cầu nên không xem xét giải Về án phí: Bà Hồ Thị Nphải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0017471 ngày 15/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đ.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;