Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 464/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020, về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXX-ST ngày 04 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Thúy D – sinh năm: 1994 (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V – sinh ngày: 17/6/1997 (có mặt).

Cùng địa chỉ: ấp S, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/11/2020 và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Ngô Thị Thúy D trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn V do quen biết rồi đi đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thiềng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre vào ngày 10/11/2017.

Sau ngày cưới vợ chồng chị sống chung gia đình chồng được một thời gian, sau đó thuê nhà tại xã Trung Ngãi sinh sống làm ăn. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn 01 năm đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V thường hay cờ bạc và còn có người phụ nữ khác bên ngoài. Chị và anh V đã không còn sống chung với nhau từ tháng 6 năm 2019 cho đến nay.

Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn V.

- Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc Linh L, sinh ngày 15/5/2018. Cháu Linh L đang sống chung với chị D. Sau khi ly hôn chị D yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Linh L. Chị D không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài saûn chung: Chị Ngô Thị Thúy D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Chị Ngô Thị Thúy D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bảng khai ý kiến ngày 10/11/2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn Văn V trình bày:

- Về mối quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất theo lời trình bày của chị D về thời gian cưới và đăng ký kết hôn nhưng anh bổ sung thêm mâu thuẫn vợ chồng chị D trình bày anh có người phụ nữ khác bên ngoài là anh không đồng ý do anh chỉ quen biết bạn bè bình thường bên ngoài chứ không có tình cảm yêu thương như chị D trình bày, anh thừa nhận là trong thời gian anh sống chung với chị D anh có tham gia cờ bạc nhưng từ khi chị D bỏ đi thì anh lo làm ăn, hiện nay anh vừa chăn nuôi gà để bán và làm thuê. Nay với yêu cầu xin ly hôn của chị D thì anh đồng ý.

- Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc Linh L, sinh ngày 15/5/2018. Sau khi cháu Linh L sinh ra thì vợ chồng anh sống chung cùng chăm sóc cho cháu Linh L đến khi cháu Linh L được 05-06 tháng thì chị D tự ý bỏ nhà đi đến tháng 8 năm 2020 thì chị D về bắt cháu Linh L đi luôn cho đến nay anh không gặp được cháu Linh L. Nay chị D yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Linh L, chị D không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con thì anh không đồng ý mà anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Linh L không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài saûn chung: Anh Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ trong vụ án:

Nguyên đơn đã nộp: Đơn khởi kiện ngày 09/11/2020, Giấy chứng nhận kết hôn; Trích lục khai sinh, sổ hộ khẩu (bản sao), giấy chứng minh nhân dân (bản sao); Đơn xác nhận; Dịch vụ chuyển phát nhanh; Giấy khám sức khỏe.

Bị đơn đã nộp: Bảng khai ý kiến, giấy chứng minh nhân dân.

Tại phiên tòa hôm nay, đương sự khẳng định không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Ngô Thị Thúy D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc ly hôn giữa chị D và anh Nguyễn Văn V. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh V do quen biết tự tìm hiểu nhau rồi tiến tới hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thiềng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre vào ngày 10/11/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh V là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị D và anh V trình bày trong quá trình vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng cự cải. Chị D và anh V đã không còn sống chung với nhau từ tháng 6 năm 2019 cho đến nay. Nay chị D yêu cầu ly hôn với anh V, anh V đồng ý nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa chị D và anh V.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc Linh L, sinh ngày 15/5/2018. Hiện nay cháu Linh L đang sống chung với chị D. Sau khi ly hôn chị D yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Linh L. Chị D không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V không đồng ý giao cháu Linh L cho chị D nuôi dưỡng, anh V yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Linh L và không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa hôm nay chị D trình bày chị làm nghề thợ tóc, mỗi ngày chị thu nhập trên 300.000đ, ngoài ra chị còn kinh doanh bất động sản, do chị làm nghề tự do nên khi Tòa án yêu cầu chị cung cấp chứng chứ để chứng minh cho việc thu nhập của chị thì chị không thể cung cấp được nhưng từ khi cháu Linh L sống chung với chị sức khỏe cháu bình thường, cháu được đi học tại trường mầm non tư thục và có giấy xác nhận của trường, thời gian đầu chị bỏ đi không mang theo cháu L là vì mẹ anh V kêu để cháu cho mẹ anh V chăm sóc, khi nào chị nhớ thì về thăm, tuy nhiên chị vẫn gửi tiền về nuôi cháu, đến khi chị về thăm con thì cha dượng của anh V không vui nói rằng chị gửi tiền không đủ nuôi con vì vậy chị muốn trực tiếp được nuôi con chị, con chị là nữ cũng còn nhỏ nên chị muốn trực tiếp chăm sóc con nên chị mới dẫn con chị đi và chăm sóc đến hôm nay. Anh V cho rằng chị không đủ điều kiện để nuôi con vì chị giáo dục con không đúng cách, dùng dao hâm dọa cháu Linh L, cụ thể anh đã nộp cho Tòa án bức ảnh mà chị đã dùng dao hâm dọa cháu Linh L, chị D không thừa nhận mà chị cho rằng tấm ảnh đó do chỉnh sửa.

Xét yêu cầu của chị D được nuôi dưỡng cháu Linh L là có cơ sở vì hiện nay cháu Linh L đang sống chung với chị D và chị D chăm lo cho cháu Linh L được đi học đầy đủ và sức khỏe của cháu phát triển bình thường. Theo Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cháu Linh L dưới 36 tháng tuổi nên được giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng để không ảnh hưởng đến cuộc sống của cháu Linh L nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của chị D, giao cháu Nguyễn Ngọc Linh L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Xét yêu cầu nuôi con của anh V là không có cơ sở chấp nhận bởi Tòa án yêu cầu anh cung cấp chứng cứ anh có đủ điều kiện để nuôi cháu Linh L nhưng anh không cung cấp cho Tòa án, tại phiên tòa hôm nay anh thừa nhận trong quá trình anh sống chung với chị D anh thường hay đánh bạc nhưng từ khi chị D bỏ đi đến nay anh lo làm ăn, cháu Linh L sống với anh là do mẹ anh và anh trực tiếp nuôi dưỡng, mẹ anh hiện nay đang sống cùng cha dượng của anh, vì cháu Linh L là nữ và hiện nay cháu còn dưới 36 tháng tuổi và cháu đang sống với chị D vẫn khỏe mạnh bình thường nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của anh V.

Về tài sản chung: Chị D và anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị D và anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Ngô Thị Thúy D phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa chị Ngô Thị Thúy D và anh Nguyễn Văn V.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc Linh L, sinh ngày 15/5/2018. Giao cháu Nguyễn Ngọc Linh L cho chị Ngô Thị Thúy D chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn V không phải cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Ngọc Linh L. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung: Chị Ngô Thị Thúy D và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Ngô Thị Thúy D và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Ngô Thị Thúy D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị Ngô Thị Thúy D đã nộp theo biên lai thu số N00008648, ngày 09/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Chị Ngô Thị Thúy D đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;