Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON  

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1115/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/01/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1989; thường trú: Xóm 3, Cao Hòa, xã K, huyện L, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Số nhà 20/13A, khu phố T, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn D, sinh năm 1989; thường trú: Xóm 3, Cao Hòa, xã K, huyện L, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Số nhà 20/13A, khu phố T, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/12/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Phạm Văn D có thời gian tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, việc tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34, quyển số 01/2010, ngày 11/6/2010, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình chấp nhận.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống và làm việc tại thị xã A (nay là thành phố A), tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi nhau, anh D có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và đã con con riêng, hai vợ chồng sống chung một nhà nhưng không quan tâm đến nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Chị N và anh D có hai con chung tên Phạm Huy H1, sinh ngày 18/8/2010 và Phạm Bảo N1, sinh ngày 31/7/2012. Sau khi ly hôn chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Bảo N1 và giao con chung Phạm Huy H1 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 22/12/2020 bị đơn anh Phạm Văn D trình bày: Thống nhất với lời khai của nguyên đơn về thời gian, điều kiện kết hôn và nơi sinh sống của vợ chồng sau khi kết hôn.

Quá trình chung sống hai vợ chồng sống không hạnh phúc. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên thường xuyên xảy ra cãi vã, không có tiếng nói chung, vợ chồng sống không hòa thuận. Mặc dù cả hai đã cố gắng cho nhau cơ hội để hàn gắn nhưng không có kết quả, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Phạm Huy H1, sinh ngày 18/8/2010 và Phạm Bảo N1, sinh ngày 31/7/2012. Anh D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Huy H1 và đồng ý giao con chung Phạm Bảo N1 cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 22/12/2020, cháu Phạm Huy H1 trình bày: Hiện tại cháu H1 đang sống cùng bố, mẹ. Trường hợp ba mẹ ly hôn cháu H1 có nguyện vọng muốn sống chung với bố.

- Tại bản tự khai ngày 04/01/2021, cháu Phạm Bảo N1 trình bày: Hiện tại cháu N1 đang sống cùng bố, mẹ. Trường hợp ba mẹ ly hôn cháu N1 có nguyện vọng muốn sống chung với mẹ.

- Ngày 31/12/2020, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Phạm Văn D tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường H và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án chị Nguyễn Thị Thanh N không có đơn yêu cầu Hội Liên hiệp phụ nữ phường H tiến hành hòa giải. Đồng thời, Hội Liên hiệp phụ nữ phường H cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh, chị, do đó không biết rõ giữa hai anh, chị có mâu thuẫn như thế nào, vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội Liên hiệp phụ nữ phường H cũng không biết nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị Thanh N khởi kiện anh Phạm Văn D yêu cầu được ly hôn và nuôi con nên đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Phạm Văn D có nơi cư trú tại phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Phạm Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34, quyển số 01/2010, ngày 11/6/2010 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Chị N xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân. Nguyên nhân là do anh D không giành thời gian chăm sóc gia đình, anh D có quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác và hiện đã có con riêng. Anh D thừa nhận vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị N và anh D đều thừa nhận quan hệ hôn nhân của hai người có nhiều mâu thuẫn, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị N và anh D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Do đó, chị N yêu cầu được ly hôn với anh D là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị N và anh D có 02 con chung tên Phạm Huy H1, sinh ngày 18/8/2010 và Phạm Bảo N1, sinh ngày 31/7/2012. Chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N1, anh D yêu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1. Khi giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét, cháu N1 hiện nay còn nhỏ, cần sự quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng của mẹ, tại bản tự khai anh D đồng ý giao cháu N1 cho chị N nuôi dưỡng và phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu N1 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Đối với cháu H1 có nguyện vọng sống cùng bố, đồng thời chị N đồng ý giao cháu H1 cho anh D nuôi dưỡng, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu H1 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, chị N và anh D đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Phạm Văn D.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh N được ly hôn với anh Phạm Văn D (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34, quyển số 01/2010, do Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bình Định cấp ngày 11/6/2010).

1.2 Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh N giao con chung Phạm Huy H1, sinh ngày 18/8/2010 cho anh Phạm Văn D trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn D giao con chung Phạm Bảo N1, sinh ngày 31/7/2012 cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Phạm Văn D có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền được cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Phạm Văn D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0049144 ngày 17/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;