Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK TÔ –TỈNH KON TUM

 BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

 Ngày 17/5/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 15/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2021, tranh chấp về ly hôn, nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/QĐXX-HNGĐ ngày 07/4/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị TTM, sinh năm 1985. Có mặt.

Bị đơn: Anh NQT, sinh năm 1978. Vắng mặt.

Cùng trú tại: Khối M, thị trấn ĐT, huyện ĐT, tỉnh KT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị TTM trình bày:

Chị (TTM) và anh NQT kết hôn ngày 16/01/2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên Bình, huyện Đăk Tô. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường hay xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đánh đập nhau, nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng không tôn trọng nhau, không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người ấy sống, đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Chị đã nộp đơn xin ly hôn một lần vào tháng 12 năm 2008, đã được Tòa án hòa giải nên chị rút đơn khởi kiện, nhưng từ đó đến nay, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thay đổi. Chị M không còn tình cảm với anh D ũng, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: NQD, sinh ngày 11/7/2007 đang ở với chị M, chị xin nhận nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh NQT đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến về việc xin ly hôn. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn.

Ý kiến của Kiểm sát viên: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đều tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị TTM được ly hôn anh NQT. Giao cho chị TTM trực tiếp nuôi con NQD.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn, anh NQT đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị TTM và anh NQT kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên Bình, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường hay xảy ra mâu thuẫn, do không tôn trọng nhau, không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người ấy sống, đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Chị M đã nộp đơn xin ly hôn một lần vào tháng 12 năm 2008, đã được Tòa án hòa giải nên chị rút đơn khởi kiện nhưng từ đó đến nay, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thay đổi. Chị M không còn tình cảm với anh Dũng. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng chị M và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho chị TTM được ly hôn anh NQT theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị M nhận nuôi con NQD. Cháu Danh có nguyện vọng ở với chị M. Xem xét nguyện vọng của chị M và cháu Danh, xét nên giao cháu Danh cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị M có đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị TTM ly hôn anh NQT.

Về con chung: Giao cho chị TTM trực tiếp nuôi con NQD, sinh ngày 11/7/2007 đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh NQT không phải cấp dưỡng nuôi con, có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; không ai được cản trở. Không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 144; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chị TTM phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai số 0003859 ngày 25/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Chị TTM đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;