Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Tòa án xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 398/2020/TLST-HNGĐ ngày 12-10-2020 về "Tranh chấp thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 398/2020/QĐST-HN ngày 15-12-2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Tiến H, sinh năm: 1961; Địa chỉ: Tổ 37, phường Thanh K, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng; có mặt.

Bị đơn: Bà Phạm Thị Thu T, sinh năm 1990; Địa chỉ: Số nhà 79/5B đường Dũng Sĩ Thanh Khê, tổ 37, phường Thanh K, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, Bản tự khai và các Biên bản hòa giải, nguyên đơn - Ông Lê Tiến H trình bày:

Tôi và Bà Phạm Thị Thu T kết hôn năm 2012, thời gian sống chung đến năm 2015 thì chúng tôi ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 226/2015/QĐST-HNGĐ ngày 30-11-2015 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng và thỏa thuận: Bà Phạm Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tôi (Lê Tiến H) tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Tuy nhiên, trong quá trình cháu V sống chung với Bà T thì tôi thấy Bà T không đảm bảo được cuộc sống đầy đủ cho cháu V, thời gian gần đây Bà T muốn bán căn nhà mà tôi đã xây dựng cho Bà T để giải quyết việc cá nhân. Bà T yêu cầu tôi phải giao cho Bà T 01 tỷ đồng, nếu không Bà T sẽ ôm cháu V tự tử. Vì sự an toàn và phát triển của cháu V nên tôi yêu cầu Toà án giải quyết cho tôi được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 vì hiện nay tôi có nhà ở ổn định tại tổ 37, phường Thanh K, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng, thu nhập hưu trí của tôi hiện nay là 14.322.000đ. Tôi không yêu cầu Bà T cấp dưỡng nuôi con.

* Tại bản tự khai và Biên bản hòa giải, bị đơn - Bà Phạm Thị Thu T trình bày:

Tôi không đồng ý giao con chung tên Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 cho Ông Lê Tiến H nuôi dưỡng vì sau khi ly hôn với Ông H theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 226/2015/QĐST- HNGĐ ngày 30-11-2015 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng thì tôi vẫn là người trực tiêp nuôi dưỡng cháu V. Tôi không đồng ý với cách giáo dục con của Ông H và không yên tâm khi giao con cho Ông H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng do Ông H thường hay say xỉn. Đồng thời, tôi là người hiểu rõ tiền sử co giật trước đây của con tôi, nên tôi mong muốn được chăm sóc con khi con đau ốm. Công việc hiện tại của tôi là kinh doanh tự do, thu nhập thất thường nhưng khoảng 10.000.000đ/tháng, hiện nay tôi đang sống tại số 25 Hà Huy Tập, phường X, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng là nhà của tôi mua lại qua giấy tờ viết tay của ông Ngô Xuân L.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các đương sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho Ông Lê Tiến H được quyền nuôi con chung Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012, Bà Phạm Thị Thu T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là Bà Phạm Thị Thu T mặc dù đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.

[2] Về nội dung vụ án: Ông Lê Tiến H và Bà Phạm Thị Thu T ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 226/2015/QĐST-HNGĐ ngày 30-11-2015 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng và thỏa thuận: Bà Phạm Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Ông Lê Tiến H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Tuy nhiên, nay Ông H khởi kiện yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; giao con chung tên Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 cho Ông H trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu Bà T cấp dưỡng nuôi con. Lý do theo Ông H trình bày là Bà T không đảm bảo được cuộc sống đầy đủ cho cháu V và vì sự an toàn và phát triển của cháu V.

[3] Về phía Bị đơn - Bà Phạm Thị Thu T có đến Tòa án để tham gia hòa giải và trình bày ý kiến không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ông Lê Tiến H do Ông H thường hay say xỉn. Tuy nhiên, sau đó Tòa án triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa thì bà lại vắng mặt.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

Theo kết quả xác minh của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê tại tổ 37 phường Thanh K, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng thì được cung cấp: Sau khi ly hôn, cháu Lê Tất V ở với Bà Phạm Thị Thu T nhưng đến khoảng tháng 12-2018 thì Ông Lê Tiến H đã dẫn cháu V về sống chung với Ông H cho đến nay; nguyên nhân là Bà T đã có đời sống riêng và không sinh sống ổn định một chỗ. Tại hồ sơ vụ án còn có Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số 08 ngày 16-11-2020 của Công an phường Thanh K, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng xác nhận có sự việc Bà T dùng con chung để gây áp lực yêu cầu Ông H phải đưa tiền cho Bà T cho Bà T làm ăn. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định phần trình bày của Ông H là có căn cứ, đúng sự thật.

Ông H cũng đã cung cấp cho Tòa án bản sao Quyết định về việc hưởng chế độ hưu trí hàng tháng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình. Còn Bà T lại không chứng minh được thu nhập và chỗ ở ổn định để có thể đảm bảo cuộc sống cho con chung. Đồng thời, Tòa án lấy ý kiến con chung thì cháu Lê Tất V trình bày xin được tiếp tục sống chung với cha. Từ những chứng cứ được xem xét như trên, Hội đồng xét xử thấy cần thay đổi người trực tiếp nuôi con theo yêu cầu của Ông H là phù hợp với tình hình thực tế hiện nay và nguyện vọng của con chung, phù hợp với quy định của pháp luật theo Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; cần xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Lê Tiến H, giao cháu V cho Ông H được trực tiếp nuôi dưỡng, Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[6] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 63, 147, 227, 228, 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn" của Ông Lê Tiến H.

Tuyên xử :

1. Giao con chung Lê Tất V, sinh ngày 26-12-2012 cho Ông Lê Tiến H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Bà Phạm Thị Thu T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở. Khi cần thiết, vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con.

2. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Ông Lê Tiến H phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0002259 ngày 12 tháng 10 năm 2020.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

359
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;