Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 227/2020/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/2021/QĐST- HNGĐ ngày 10/11/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Trương Thị Kim C – sinh năm 1989; Trú tại: thôn 2, xã T, huyện T, tỉnh Q, có mặt.

- Bị đơn: ông Lê Văn T – sinh năm 1985; Trú tại: khu chung cư số 1, phòng 311, phường N, quận S, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/10/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trương Thị Kim C trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông T kết hôn vào năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà. Vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do ông T không có trách nhiệm, không quan tâm đến vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt về gây gỗ, chửi bới, đánh đập bà. Hiện nay, bà không thể tiếp tục sống chung với ông T được nữa. Hai vợ chồng sống ly thân, ông T sống tại Đà Nẵng còn bà sống tại Tiên Phước, Quảng Nam. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Lê Hoàng Ngọc Bảo, sinh ngày:

31/01/2013. Khi làm đơn xin ly hôn bà có nguyện vọng nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Nhưng sau khi Tòa án lấy ý kiến của con, con có nguyện vọng ở với Ba ở Đà Nẵng để thuận lợi cho việc học hành nên bà cũng đồng ý giao con chung cho ông T nuôi dưỡng. Trong thời gian sống ly thân mặc dù bà sống ở Quảng Nam bà vẫn gửi tiền ăn học cho con hàng tháng. Nên bà đồng ý tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà Trương Thị Kim C với nội dung như trên, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải. Tuy nhiên, ông T không có mặt. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời những người tham gia tố tụng cũng đã chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51 và 56 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ các điều 35, 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Trương Thị Kim C đối với ông Lê Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị Kim C được ly hôn với ông Lê Văn T.

- Về con chung: Giao con Lê Hoàng Ngọc Bảo, sinh ngày: 31/01/2013 cho ông Lê Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Trương Thị Kim C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000đ, thời gian cấp dưỡng từ tháng 02/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không đề cập đến.

- Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con: bà C phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của bà Trương Thị Kim C nộp tại Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng và Tòa án đã thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 28; Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn, ông Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Lê Văn T theo thủ tục chung, ông T phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Trương Thị Kim C và ông Lê Văn T kết hôn vào năm 2012 đăng ký kết hôn tại UBND phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

- Về hôn nhân: Bà Trương Thị Kim C cho rằng, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do ông T không có trách nhiệm, không quan tâm đến vợ con và thường xuyên nhậu nhẹt về gây sự, chửi bới, đánh đập bà. Hiện nay, bà không thể tiếp tục sống chung với ông T được nữa và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã động viên bà Trương Thị Kim C về tiếp tục sống chung với ông T để cùng nhau nuôi dạy con chung và xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng bà C vẫn giữ nguyên yêu cầu kiên quyết xin được ly hôn đối với ông T.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã đến mức không thể hàn gắn được. Kể từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thông báo về phiên hòa giải. Tuy nhiên, ông T vẫn cố tình né tránh, không cung cấp lời khai, không tham gia các phiên hòa giải và đã vắng mặt hai lần liên tiếp tại phiên tòa. Điều đó chứng tỏ ông T không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân với bà C. Xét mâu thuẩn giữa hai vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, HĐXX xét thấy cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho bà Trương Thị Kim C được ly hôn với ông Lê Văn T là thỏa đáng.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Lê Hoàng Ngọc Bảo, sinh ngày: 31/01/2013. Khi làm đơn xin ly hôn bà có nguyện vọng nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Nhưng sau khi con có nguyện vọng ở với Ba ở Đà Nẵng để việc học hành được thuận lợi nên bà cũng đồng ý giao con chung cho ông T nuôi dưỡng. HĐXX xét thấy việc giao con cho ai nuôi dưỡng phải đảm bảo sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần, cũng như sự phát triển toàn diện của con. Xét điều kiện hiện nay của ông T có chỗ ở ổn định (Chung cư), cháu Bảo đang theo học tại trưởng tiểu học Hai Bà Trưng, quận Sơn Trà. Do đó không cần xáo trộn việc học hành của cháu Bảo mà tiếp tục giao cháu Bảo cho ông T nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con được quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Bà C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ thời gian cấp dưỡng từ tháng 02/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, xét việc cấp dưỡng của bà C là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với thu nhập thực tế hiện nay của bà C (mỗi tháng 4.500.000đ) nên ghi nhận sự tự nguyện này.

- Về tài sản chung: Không đề cập đến.

- Về nợ chung: Không đề cập đến.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con: Bà Trương Thị Kim C phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; các điều 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án.

- Chấp nhận đơn khởi kiện về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” của bà Trương Thị Kim C đối với ông Lê Văn T;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Trương Thị Kim C được ly hôn ông Lê Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao con Lê Hoàng Ngọc Bảo, sinh ngày: 31/01/2013 cho ông Lê Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Bà Trương Thị Kim C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 02/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Ly hôn, các bên có quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập đến.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000đ bà Trương Thị Kim C phải chịu. Nhưng được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006374 ngày 09/11/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà,TP Đà Nẵng.

Bà Trương Thị Kim C phải chịu 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;