TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 04/2021/DS-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC
Trong ngày 24 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2021/TLST- DS, ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST- DS ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Lý Thị Đ; Sinh năm: 1991. Địa chỉ: ấp C, thị trấn Tr, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
* Đồng bị đơn :
1. La Văn Tr; Sinh năm: 1963. Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: khu b, ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng. Nơi ở hiện nay: khu b, ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
2. Hà Thị S; Sinh năm: 1963. Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: khu b, ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng. Nơi ở hiện nay: khu b, ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 31 tháng 12 năm 2020, các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Lý Thị Đ trình bày:
Ngày 23/9/2020 ông La Văn Tr và bà Hà Thị S có sự chứng kiến của con gái tên La Bửu Th đồng chuyển nhượng cho bà Đ 01phần đất có diện tích 64,4 m2, thuộc thửa đất số 122, tờ bản đồ số 30, tọa lạc ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng và căn nhà gắn liền với đất với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng). Hai bên thỏa thuận bà Đ đặt cọc trước cho bên ông Tr số tiền là 300.000.000 đồng, trong thời gian 02 tháng kể từ ngày nhận tiền cọc bên ông Tr có quyền trả lại tiền cọc cho bà Đ, nếu quá hai tháng mà ông Tr không thực hiện giao kết thì bên bà Đ có quyền chuyển nhượng sang tên như thỏa thuận, đến hẹn bên ông Tr đã bán tài sản trên cho ông Hoàng Duy T, nhưng chỉ trả lại cho bà Đ được số tiền là 100.000.000 đồng, phía ông Tr hẹn đến ngày 27/12/2020 sẽ trả đủ số tiền còn lại cho bà Đ, nhưng đến ngày hẹn ông Tr không trả tiền cho bà Đ. Nay bà Đ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà Lý Thị Đ số tiền còn nợ trong hợp đồng đặt cọc là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), không yêu cầu tính lãi.
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13 tháng 3 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông La Văn Tr trình bày: Ngày 23/9/2020 vợ chồng ông La Văn Tr và bà Hà Thị S có sự chứng kiến của con gái tên La Bửu Th hợp đồng chuyển nhượng cho bà Lý Thị Đ 01 phần đất có diện tích 64,4 m2, thuộc thửa đất số 122, tờ bản đồ số 30, tọa lạc ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng và căn nhà gắn liền với đất với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng). Hai bên thỏa thuận bà Đ đặt cọc trước cho bên ông Tr số tiền là 300.000.000 đồng, trong thời gian 02 tháng kể từ ngày nhận tiền cọc bên ông Tr có quyền trả lại tiền cọc cho bà Đ, nếu quá hai tháng mà bên ông Tr không thực hiện giao kết thì bên bà Đ có quyền chuyển nhượng sang tên như thỏa thuận. Sau khi hợp đồng thì bên ông Tr, bà S đã bán tài sản trên cho ông Hoàng Duy T, nhưng chỉ trả lại cho bà Đ được số tiền là 100.000.000 đồng, vợ chồng ông Tr, bà S hẹn đến ngày 27/12/2020 sẽ trả đủ số tiền còn lại cho bà Đ, nhưng đến ngày hẹn ông Tr, bà S không trả tiền cho bà Đ. Ông Tr thừa nhận hiện nay vợ chồng ông còn nợ bà Lý Thị Đ số tiền gốc đã đặt cọc là 200.000.000 đồng, nhưng do hoàn cảnh kinh tế gia đình đang gặp khó khăn, nên ông Tr yêu cầu bà Đ cho ông Tr, bà S hẹn khi nào ông Tr, bà S bán được tài sản là căn nhà mà ông Tr, bà S đang ở thì ông Tr, bà S sẽ trả số tiền gốc cho bà Đ là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
* Bị đơn là bà Hà Thị S đã được Tòa án tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án hợp lệ và được thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, bà S không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cũng như không đến tham gia phiên họp và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà S.
* Phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
1. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề phát biểu ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn, trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự. Riêng đối với đồng bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án giữa nguyên đơn là bà Lý Thị Đ và bị đơn là ông La Văn Tr đều thống nhất xác định hai bên có hợp đồng mua bán tài sản với nhau (mua bán đất và nhà). Bà Đ có gửi tiền đặt cọc cho ông Tr và bà S số tiền là 300.000.000 đồng. Sau đó, Trung bà S đã gửi trả lại cho bà Đ số tiền là 100.000.000 đồng, hiện nay ông Tr và bà S còn nợ bà Đ số tiền là 200.000.000 đồng. Đối với bà S sau khi nhận văn bản thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu của bà Đ thì bà S không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Do đó, xem như bà S đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13 tháng 3 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông La Văn Tr thống nhất hoàn trả cho bà Đ số tiền là 200.000.000 đồng, nhưng yêu cầu bà Đ cho ông Tr, bà S hẹn khi nào ông Tr, bà S bán được tài sản là căn nhà mà ông Tr, bà S đang ở thì ông Tr, bà S sẽ trả số tiền gốc cho bà Đ là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), nhưng bà Đ không đồng ý. Như vậy, giữa nguyên đơn Lý Thị Đ và bị đơn La Văn Tr, Hà Thị S đã thống nhất số tiền còn nợ, nhưng không thỏa thuận được thời gian và cách thanh toán nợ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 117, Điều 119, Điều 328, Điều 398, Điều 422, Điều 423 và Điều 427 và của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình xử buộc ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà Lý Thị Đ số tiền gốc là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), không tính lãi. Về án phí buộc các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ông La Văn Tr và bà Hà Thị S là đồng bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Tr và bà S.
[1.2] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Lý Thị Đ thì nguyên đơn có hợp đồng mua bán đất gắn liền nhà với đồng bị đơn là ông La Văn Tr và bà Hà Thị S, theo hợp đồng trong thời gian 02 tháng kể từ ngày nhận tiền cọc bên ông Tr có quyền trả lại tiền cọc cho bà Đ, nếu quá hai tháng mà ông Tr không thực hiện giao kết thì bên bà Đ có quyền chuyển nhượng sang tên như thỏa thuận.
Đến hạn hợp đồng bên ông Tr, bà S chỉ trả lại cho bà Đ được số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng, còn lại 200.000.000 đồng thì ông Tr, bà S hẹn đến ngày ngày 27/12/2020 sẽ trả đủ số tiền còn lại cho bà Đ, nhưng đến ngày hẹn ông Tr không trả tiền cho bà Đ. Do ông Tr, bà S vi phạm hợp đồng, nên bà Đ yêu cầu ông Tr, bà S phải hoàn trả số tiền là 200.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp phát sinh trong vụ kiện này là Tranh chấp Hợp đồng dân sự (Hợp đồng đặt cọc theo Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 200.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13 tháng 3 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông La Văn Tr trình bày: Ngày 23/9/2020 vợ chồng ông La Văn Tr và bà Hà Thị S có sự chứng kiến của con gái tên La Bửu Th hợp đồng chuyển nhượng cho bà Lý Thị Đ mãnh đất có diện tích 64,4 m2, thuộc thửa đất số 122, tờ bản đồ số 30, tọa lạc ấp Ch, thị trấn L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng và căn nhà gắn liền với đất với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng). Hai bên thỏa thuận bà Đ đặt cọc trước cho bên ông Tr số tiền là 300.000.000 đồng, trong thời gian 02 tháng kể từ ngày nhận tiền cọc bên ông Tr có quyền trả lại tiền cọc cho bà Đ, nếu quá hai tháng mà bên ông Tr không thực hiện giao kết thì bên bà Đ có quyền chuyển nhượng sang tên như thỏa thuận. Sau khi hợp đồng thì bên ông Tr, bà S đã bán tài sản trên cho ông Hoàng Duy T, nhưng chỉ trả lại cho bà Đ được số tiền là 100.000.000 đồng, vợ chồng ông Tr, bà S hẹn đến ngày 27/12/2020 sẽ trả đủ số tiền còn lại cho bà Đ, nhưng đến ngày hẹn ông Tr, bà S không trả tiền cho bà Đ. Ông Tr thừa nhận hiện nay vợ chồng ông còn nợ bà Lý Thị Đ số tiền gốc đã đặt cọc là 200.000.000 đồng, nhưng do hoàn cảnh kinh tế gia đình đang gặp khó khăn, nên ông Tr yêu cầu bà Đ cho ông Tr, bà S hẹn khi nào ông Tr, bà S bán được tài sản là căn nhà mà ông Tr, bà S đang ở thì ông Tr, bà S sẽ trả số tiền gốc cho bà Đ là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
Hồi đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án giữa nguyên đơn là bà Lý Thị Đ và bị đơn là ông La Văn Tr đều thống nhất xác định hai bên có hợp đồng mua bán tài sản với nhau (mua bán đất và nhà). Bà Đ có gửi tiền đặt cọc cho ông Tr và bà S số tiền là 300.000.000 đồng. Sau đó, Trung bà S đã gửi trả lại cho bà Đ số tiền là 100.000.000 đồng, hiện nay ông Tr và bà S còn nợ bà Đ số tiền là 200.000.000 đồng. Đối với bà S sau khi nhận văn bản thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu của bà Đ thì bà S không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Do đó, Hội đồng xét xử xem như bà S đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tình tiết, sự kiện bà Đ không cần phải chứng minh. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đ yêu cầu ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả số tiền gốc là 200.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13 tháng 3 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông La Văn Tr thống nhất hoàn trả cho bà Đ số tiền là 200.000.000 đồng, nhưng yêu cầu bà Đ cho ông Tr, bà S hẹn khi nào ông Tr, bà S bán được tài sản là căn nhà mà ông Tr, bà S đang ở thì ông Tr, bà S sẽ trả số tiền gốc cho bà Đ là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), nhưng bà Đ không đồng ý. Như vậy, giữa nguyên đơn Lý Thị Đ và bị đơn La Văn Tr, Hà Thị S đã thống nhất số tiền còn nợ, nhưng không thỏa thuận được thời gian và cách thanh toán nợ. Vì vậy, cần xử buộc ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà Lý Thị Đ số tiền gốc là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), không tính lãi là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại các Điều 117, Điều 119, Điều 328, Điều 398, Điều 422, Điều 423 và Điều 427 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải liên đới nộp số tiền là 10.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà Lý Thị Đ không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà Lý Thị Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005880 ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.
[4] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề. Như đã nhận định ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở để Hội đồng xét xử xét chấp nhận.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 92, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 117, Điều 119, Điều 328, Điều 398, Điều 422, Điều 423 và Điều 427 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 09 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Đ.
Buộc ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà Lý Thị Đ số tiền gốc là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà Đ có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) thì hàng tháng ông Tr, bà S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông La Văn Tr và bà Hà Thị S phải liên đới nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng); Bà Lý Thị Đ không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà Lý Thị Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005880 ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.
3. Về quyền kháng cáo bản án: Bà Lý Thị Đ có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với đồng bị đơn ông La Văn Tr và bà Hà Thị S không có mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về