TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H, ANH TH
Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 24/2020/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 02/2020/QĐST- HNGĐ ngày 6 tháng 11 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 02/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26/11/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997. (có mặt) STQ: Thôn Lầy, xã Đào Viên, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. HKTT: Thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Bị đơn: Anh Trần Danh Th, sinh năm 1993. (vắng mặt) STQ: Thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai của phía chị H trong hồ sơ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Trần Danh Th vào tháng 11/2015, kết hôn do hai bên tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi làm lễ cưới vợ chồng về sống chung cùng với gia đình anh Th thời gian ngắn sau đó được gia đình cho ra ở riêng, ở riêng nhà mà không ở chung nhà cùng gia đình nhà chồng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó cũng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Theo phía chị H trình bày: Thời gian đầu vợ chồng chung sống cũng không có điều tiếng gì nhưng sau đó vợ chồng cũng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn mà nguyên nhân là do vợ chồng kinh tế cũng khó khăn. Sau thời gian chung sống thì cũng đã nảy sinh nhiều điểm bất đồng, vợ chồng khó dung hòa và thường không nhường nhịn nhau nên cuộc sống gia đình luôn căng thẳng. Vợ chồng bất đồng với nhau từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, khi có chuyện gì cũng bất đồng, cãi nhau làm cho tình cảm vợ chồng bị sứt mẻ trầm trọng. Theo chị H trình bày thì anh Th là người không có lập trường, hay bị tác động từ phía gia đình nên cũng cứ hay ghi ngờ chị thế này thế kia. Kể từ tháng 2/2018 thấy rằng cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ để ở, sau đó chị cùng với con lên nhà chị gái trên Th phố Bắc Giang làm việc và sinh sống trên đó. Trong thời gian vợ chồng ly thân hai bên cũng không cải thiện được mối quan hệ vợ chồng nên nay chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị được ly hôn anh Th.
Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Huyền My, sinh ngày 27/9/2016. Kể từ tháng 2/2018 chị đã cùng với con về nhà ông bà ngoại để ở, sau đó chị đã đưa con lên Th phố Bắc Giang sinh sống và làm việc trên đó. Hiện chị đang làm tại Spa chăm sóc sắc đẹp, cháu My cũng đang đi học mần non trên Bắc Giang nên ly hôn chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, tại phiên tòa chị H rút yêu cầu, chị không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị như nội dung đơn ly hôn chị đã yêu cầu.
Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Chị H không có yêu cầu gì.
Đối với anh Trần Danh Th: Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Th đến trụ sở để giải quyết việc ly hôn nhưng anh Th không chấp hành, không đến Tòa án để làm việc. Tiến hành xác minh với bà Nguyễn Thị Lập là mẹ đẻ anh Th thì xác định được anh Th hiện vẫn cư trú tại thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ. Anh Th đi làm tự do, có thời gian làm anh Th không đi về trong ngày nhưng vẫn liên lạc với gia đình, vẫn về nhà khi có công việc. Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng, thông báo triệu tập anh Th thông qua bà Lập nhưng anh Th vẫn cố tình vắng mặt không làm việc trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa.
Qua xác minh mâu thuẫn vợ chồng từ phía bà Lập là mẹ anh Th thì thấy, vợ chồng thực tế mâu thuẫn mức độ như thế nào thì gia đình cũng không nắm bắt được. Chỉ thấy kể từ tháng 2/2018 chị H tự ý đem con bỏ về nhà bố mẹ đẻ rồi sau cũng không quay lại nữa. Kể từ đó vợ chồng không còn quay lại với nhau nữa, không đả động gì đến việc vợ chồng quay lại ở với nhau. Phía hai gia đình cũng có động viên vợ chồng đoàn tụ nhưng chị H nói là không chung sống nữa. Nay chị H có yêu cầu ly hôn, bà Lập cũng thấy rằng vợ chồng khó có thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của chị H.
Tại phiên tòa phía chị H vẫn giữ yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn. Về con chung chị đề nghị được nuôi con, chị H rút yêu cầu không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Đối với anh Th vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ tiến hành tố tụng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ án: Về tố tụng, quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác và phía nguyên đơn trong vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có vi phạm phải kiến nghị khắc phục. Đối với bị đơn đã được Tòa án tiến hành thủ tục tố tụng đầy đủ, đảm bảo đúng quy định nhưng anh Th vẫn vắng mặt tại các buổi làm việc, vắng mặt tại phiên tòa nên việc xét xử vắng mặt anh Th là có căn cứ. Về giải quyết vụ án, thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, vợ chồng đã ly thân được hơn 2 năm nhưng vẫn không có biện pháp đoàn tụ. Bản thân anh Th không đến Tòa án làm việc chứng tỏ anh Th cũng không tha thiết gì việc vợ chồng đoàn tụ. Vợ chồng không thể tiếp tục chung sống hạnh phúc được nên căn cứ vào Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H. Về con chung cần giao cháu Trần Huyền My cho chị H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, phí tổn cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung không có và đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Từ nội dung trên:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Qua xác minh tại gia đình anh Th thì xác định được anh Th hiện vẫn ở địa phương cư trú, anh Th đi làm tự do và vẫn có liên lạc thường xuyên với gia đình, vẫn về nhà khi gia đình có công việc. Do anh Th vắng nhà không thực hiện được việc tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng, nên Tòa án đã tiến hành giao văn bản cho bà Lập là mẹ đẻ anh Th và bà Lập cam kết gửi văn bản cho anh Th. Bà Lập cũng xác định đã thông báo văn bản tố tụng của Tòa án tới cho anh Th nhưng anh Th vẫn cố tình vắng mặt, cố tình không tham gia tố tụng tại Tòa án. Tại phiên tòa anh Th vắng mặt lần thứ 2, do vậy căn cứ vào các Điều 207, 227, 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Th là có căn cứ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Trần Danh Th vào tháng 11/2015, kết hôn do tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh Th thời gian ngắn thì được gia đình cho ra ở riêng. Vợ chồng kể từ khi ra ở riêng chung sống với nhau được thời gian ngắn thì đã nảy sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn qua lời trình bày của chị H thì xác định được mâu thuẫn vợ chồng chủ yếu là do hai bên không có sự hòa hợp về cách sống, vợ chồng mâu thuẫn với nhau kể cả từ những nguyên nhân nhỏ nhặt nhất. Anh Th sống không có lập trường và hay nghi ngờ chị đã làm cho đời sống vợ chồng luôn căng thẳng, vợ chồng chung sống nhưng không có tình cảm, không có hạnh phúc. Kể từ tháng 2/2018 vợ chồng ly thân không còn chung sống cùng nhau nữa. Sau khi ly thân cũng không ai quan tâm đến ai, không cải thiện được tình cảm vợ chồng. Phía hai gia đình cũng có tác động hòa giải nhưng đều không có kết quả. Trong thời gian chuẩn bị xét xử Tòa án cũng đã nhiều lần thông báo anh Th đến Tòa để làm việc cũng như tiến hành hòa giải giữa hai bên nhưng anh Th không đến làm việc chứng tỏ anh Th cũng không tha thiết gì chuyện đoàn tụ vợ chồng. Điều này cũng phù hợp với ý kiến của phía gia đình anh Th khi xác định vợ chồng khó có thể đoàn tụ được. Nay phía chị H nhất định đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn với nhau đã trầm trọng và kéo dài, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vợ chồng ly thân thời gian cũng đã dài nhưng vẫn không cải thiện được mối quan hệ, tình cảm vợ chồng đã hết nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh Trần Danh Th.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Huyền My, sinh ngày 27/9/2016. Kể từ tháng 2/2018 khi vợ chồng sống ly thân thì cháu My ở với mẹ, hiện cháu cũng đã ổn định cuộc sống bên mẹ, cháu My được mẹ chăm sóc và được đi học, chăm lo chu đáo nên thấy rằng cần tiếp tục giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung là đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu nên anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H.
Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Chị H trình bày không có và cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 147, 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Trần Danh Th.
2. Về con chung: Giao cho chị H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Huyền My, sinh ngày 27/9/2016, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai được ngăn cản việc thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Không xem xét giải quyết do chị H không yêu cầu.
* Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn mà chị H đã nộp theo biên lai thu số 0002409 ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về ly hôn giữa chị H, anh Th
Số hiệu: | 04/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về