TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/02/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ V VÀ ANH K
Trong ngày 27 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Đước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 508/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Võ Thị Bích V, sinh năm: 1992 (có mặt). Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Bị đơn: Anh Nguyễn Viết K, sinh năm: 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 14/11/2019 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn chị Võ Thị Bích V trình bày: Chị và anh Nguyễn Viết K cưới nhau vào năm 2017, hôn nhân do tự nguyện và đăng ký kết hôn vào ngày 25/9/2017 tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Long An. Sau khi cưới, chị về làm dâu bên chồng được một thời gian thì thuê nhà trọ sống riêng. Theo chị, thời gian đầu vợ chồng chung sống cũng hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh K không lo làm ăn để chăm lo cho vợ con, sau khi sinh con thì anh K yêu cầu rước con về bên gia đình anh K sinh sống nhưng con còn nhỏ, chị V không đồng ý nên vợ chồng cãi vã nhau. Chị V và anh K ly thân từ năm 2018 cho đến nay nhưng cả hai không ai có thiện chí hàn gắn hạnh phúc. Nay xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh K.
Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Võ Nhật H sinh ngày 24/11/2018, hiện chị V đang nuôi dưỡng cháu H. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung; chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản: không có.
Về nợ: không có nợ chung.
Tòa án tiến hành lập thủ tục thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị đơn anh Nguyễn Viết K vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Chị Võ Thị Bích V khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Viết K. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Bị đơn anh Nguyễn Viết K đã được Tòa án thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia vụ án nhưng đều vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh K.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Võ Thị Bích V và anh Nguyễn Viết K chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2017 là hôn nhân hợp pháp. Theo chị V nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do anh K không lo làm ăn để chăm lo cho vợ con, sau khi sinh con thì anh K yêu cầu rước con về bên gia đình anh K sinh sống nhưng con còn nhỏ, chị V không đồng ý nên vợ chồng cãi vã nhau. Hiện tại, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng nên chị V yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Viết K.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh K nhưng anh K không đến Tòa án, chứng tỏ anh K không có thiện chí hàn gắn tình cảm với chị V để vợ chồng đoàn tụ, chị V cương quyết ly hôn vì cho rằng vợ chồng không có khả năng hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh K đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị V yêu cầu được ly hôn với anh K là có căn cứ. Do đó, cần áp dụng Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị Bích V.
[2.2] Về nuôi con chung: Theo chứng cứ do chị V cung cấp, chị V và anh K có 01 con chung tên Nguyễn Võ Nhật H sinh ngày 24/11/2018, hiện chị V đang nuôi dưỡng cháu H. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Xét thấy, cháu H đang do chị V trực tiếp nuôi dưỡng, cháu H dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử quyết định cho chị V được tiếp tục nuôi cháu H là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Do anh K không có văn bản trình bày vấn đề này, chị V xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu các đương sự có tranh chấp, sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.
[2.4] Về án phí: Chị Võ Thị Bích V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
[2.5] Về quyền kháng cáo: Chị Võ Thị Bích V và anh Nguyễn Viết K được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Bích V về việc “Ly hôn” với anh Nguyễn Viết K.
1.Về hôn nhân: Chị Võ Thị Bích V được ly hôn với anh Nguyễn Viết K.
2.Về nuôi con chung: Chị Võ Thị Bích V được tiếp tục nuôi con chung là cháu Nguyễn Võ Nhật H sinh ngày 24/11/2018. Anh Nguyễn Viết K không phải cấp dưỡng nuôi con.
Bên không nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Toà án có thể thay đổi người nuôi dưỡng cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.
3.Về án phí: Chị Võ Thị Bích V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0001889 ngày 28/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Đước.
4.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 27/02/2020 về ly hôn giữa chị V và anh K
Số hiệu: | 04/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/02/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về