Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 15/2019/TLST - HNGĐ, ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 04 tháng 3 năm 2020; Thông báo thời gian xét xử số 45/TB - TA, ngày 17 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; giữa:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thùy T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn P, thị trấn C, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn D, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/11/2019, các lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Lê Thị Thùy T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Tấn D có tìm hiểu, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ vào ngày 17/02/2017. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị và anh D bất đồng quan điểm về mọi phương diện nên thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng.

Đến tháng 2/2018 chị ôm con về bên nhà mẹ đẻ ở thôn P, thị trấn C, huyện N để sinh sống, từ đó chị và anh D sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau. Nay, chị cảm thấy giữa chị và anh D không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh D.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị và anh D có một con chung tên Nguyễn Biện Khánh T, sinh ngày 11/12/2016, hiện nay con đang ở với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Đều không có, không yêu cầu.

Bị đơn anh Nguyễn Tấn D: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn anh Nguyễn Tấn D nhưng anh D không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cung cấp chứng cứ cho Tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; không đến Tòa án làm việc, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành đúng quy định pháp luật của nguyên đơn. Riêng bị đơn thực hiện không đúng quy định pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thùy T là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Lê Thị Thùy T được ly hôn anh Nguyễn Tấn D; giao con chung Nguyễn Biện Khánh T, sinh ngày 11/12/2016 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; về cấp dưỡng cho con: Chị T không yêu cầu; về tài sản chung, nợ chung: Không có. Ngoài ra, đương sự còn chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho bị đơn là anh Nguyễn Tấn D các văn bản tố tụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh D đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh D đều không có mặt theo Thông báo và giấy triệu tập của Tòa.

Mặc dù, anh D biết Tòa án đang giải quyết vụ án dân sự ly hôn, tranh chấp về nuôi con mà anh là bị đơn nhưng anh vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, anh D phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh D có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Tấn D.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Thị Thùy T và anh Nguyễn Tấn D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 17 tháng 02 năm 2017. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh D là hợp pháp.

Về tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng: Quá trình chung sống vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm về mọi mặt nên vợ chồng thường xuyên cãi vả, anh D không có trách nhiệm với vợ con nên từ tháng 02/2018 chị T đã ôm con bỏ về bên nhà mẹ đẻ sống và thực tế anh chị không còn thương yêu, chăm sóc lẫn nhau và đã sống ly thân trong một thời gian dài là vi phạm Điều 19 Luật hôn nhân và gia định, điều đó chứng tỏ cuộc sống hôn nhân không mang lại hạnh phúc cho anh chị, tình trạng hôn nhân của chị T, anh D đã trở nên trầm trọng, kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh D có một con chung là Nguyễn Biện Khánh T, sinh ngày 11/12/2016. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con.

HĐXX xét thấy, Chị T đang nuôi các con ổn định, con còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ để đảm bảo ổn định về cuộc sống và các điều kiện phát triển về tinh thần của cháu, trong khi đó anh D không có ý kiến gì về việc nuôi dưỡng con chung.Vì vậy, nguyện vọng tiếp tục được nuôi con của chị T là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

Về cấp dưỡng cho con: Chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Đều không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về án phí: Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Vì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nên chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ. Chị T đã nộp tạm ứng án phí nên được khấu trừ xong.

Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và các Điều 227, 228, 235, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 6, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thùy T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Thùy T được ly hôn anh Nguyễn Tấn D.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Biện Khánh T, sinh ngày 11/12/2016 cho chị Trang trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng cho con: Chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đều không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Thùy T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002502 ngày 04/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 08/5/2020), đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộ Đức - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;