Bản án 04/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2018/TLST-HS, ngày 27 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn C, sinh năm 1967; tại huyện L, tỉnh Hà Nam. Nơi cư trú: Thôn P, xã P, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị V và 01 con; tiền án: có 03 tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/1999/HSST ngày 25/3/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bản án số 41/2009/HSST ngày 18/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bản án số 23/2016/HSST ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 30 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tiền sự: Không; nhân thân: xấu; bị bắt, tạm giữ, giam ngày 12/10/2018; có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Ông Mã Văn B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 12/10/2018, Trần Văn C đi từ phòng trọ tại ngõ 10, khu L, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn lên cửa khẩu Cốc Nam, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn để tìm việc làm thuê thì được 01 nam thanh niên thuê vận chuyển hàng hóa là nông sản. Sau khi vận chuyển hàng nông sản cho người này sang chợ Lũng Vài, Trung Quốc, đến khoảng 06 giờ cùng ngày Trần Văn C quay về Việt Nam. Khi đi đến khu vực hầm chui thuộc Lũng Vài, Trung Quốc, Trần Văn C thấy 01 người đàn ông Trung Quốc (không rõ họ, tên, địa chỉ) đang đứng cạnh một bao tải dứa màu xanh, khi thấy C người đàn ông Trung Quốc đã tiến đến gần hỏi C bằng tiếng Việt Nam “Có vác hàng không? mày vác cho tao bao hàng lên đồi 06, tao cho mày tiền” và chỉ cho C thấy bao hàng mà C cần vận chuyển. C đồng ý, sau đó C tháo chiếc Gùi mình mang theo người và buộc bao hàng rồi Gùi lên vai đi về hướng đồi 06. Khi đi được vài bước, C hỏi người đàn ông Trung Quốc về hàng hóa trong bao tải là gì, người đó trả lời cho C biết bên trong là pháo giàn. C biết vận chuyển pháo về Việt Nam là hành vi vi phạm pháp luật nên tỏ thái độ không muốn vận chuyển nữa. Người đàn ông Trung Quốc liền thỏa thuận với C chỉ cần vận chuyển lên khu vực đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, khi đó sẽ có người đến nhận và mang hàng về Việt Nam và người đàn ông Trung Quốc cũng hứa sẽ đi cùng với C. Ngay sau đó người đàn ông Trung Quốc lấy 02 tờ tiền Việt Nam, mệnh giá 100.000đ/tờ đưa cho C. Do thấy tiền công được trả nhiều hơn tiền công vận chuyển hàng hóa bình thường nên C đã nhận tiền và tiếp tục vận chuyển pháo đi về Việt Nam. Khi đến khu vực đường phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc trên đỉnh đồi 06 về phía Việt Nam 11m, C dừng lại để đợi người chủ bao pháo đi lên thì bị Tổ kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị phát hiện, bắt quả tang Trần Văn C đang vận chuyển 04 giàn pháo loại 100 lỗ/giàn. Tổ công tác đã đưa Trần Văn C cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại biên bản xác định trọng lượng pháo ngày 12/10/2018 xác định số pháo mà Trần Văn C vận chuyển có tổng trọng lượng 16kg.

Kết luận giám định số 25/KL-PC09 ngày 16/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận số pháo của Trần Văn C có chứa thuốc pháo, khi đốt gây ra tiếng nổ.

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 26/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm k, l khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm k, l khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự

Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm Tội vận chuyển hàng cấm và xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng vì bị cáo Trần Văn C điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Xác nhận 01 giàn pháo nổ loại 100 lỗ/giàn đã sử dụng để giám định hết. Còn 03 giàn pháo loại 100 lỗ/giàn; 04 túi nilon màu đen dùng để bọc pháo; 01 túi nilon màu trắng và 01 bao tải dứa màu xanh dùng để đựng pháo; 01 chiếc gùi hàng được làm bằng bao tải dứa màu xanh đen buộc với dây thừng màu vàng đã tiêu hủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 61 ngày 30/10/2018 của Cơ quan Điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ do phạm tội mà có.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn C 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh đen, model: 105, số IMEI: 351867/07/230126/7 và 01 sim điện thoại Viettel.

Về án phí: Bị cáo Trần Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi của bản thân và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hồi 06 giờ 20 phút ngày 12/10/2018, tại đường mòn 06, phía Đông mốc 1109 thuộc khu Nam Quan, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Tổ kiểm soát của Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, trong quá trình làm nhiệm vụ qua kiểm tra đã phát hiện, bắt quả tang Trần Văn C có hành vi vận chuyển hàng cấm pháo nổ. Tang vật thu giữ gồm 04 giàn pháo loại 100 lỗ/giàn, có tổng trọng lượng 16kg.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt quả tang, biên bản xác định trọng lượng và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Trần Văn C đã có hành vi vận chuyển 16 kg pháo nổ là vi phạm pháp luật. Hành vi này của bị cáo Trần Văn C đã phạm vào tội vận chuyển hàng cấm, quy định tại điểm k, l khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn C thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, có đủ khả năng để nhận thức việc vận chuyển hàng cấm là trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý một số hàng hóa của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc theo tội danh và điều khoản trong Bộ luật Hình sự như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ ông Trần Văn Đ là thương binh loại A trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/1999/HSST ngày 25/3/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bản án số 41/2009/HSST ngày 18/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bản án số 23/2016/HSST ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 30 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Trần Văn C không có việc làm ổn định, kinh tế gia đình khó khăn (theo biên bản xác minh ngày 22/10/2018), nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[11] Đối với người đàn ông Trung Quốc là người đã thuê Trần Văn C vận chuyển pháo từ Trung Quốc về Việt Nam do điều kiện về lãnh thổ nên cơ quan điều tra không có điều kiện để xác minh làm rõ.

[12] Về xử lý vật chứng: Số tiền 200.000đ thu của bị cáo Trần Văn C, xét thấy đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình Sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh đen, model: 105, số IMEI: 351867/07/230126/7 và 01 sim điện thoại Viettel, xét thấy là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[13] Đối với 01 giàn pháo nổ loại 100 lỗ/giàn đã sử dụng để giám định hết. Còn 03 giàn pháo loại 100 lỗ/giàn; 04 túi nilon màu đen dùng để bọc pháo; 01 túi nilon màu trắng và 01 bao tải dứa màu xanh dùng để đựng pháo; 01 chiếc Gùi hàng được làm bằng bao tải dứa màu xanh đen buộc với dây thừng màu vàng đã tiêu hủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 61 ngày 30/10/2018 của Cơ quan Điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo Trần Văn C bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm k, l khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình Sự; điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; 332; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Văn C 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/10/2018.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xác nhận 01 giàn pháo nổ loại 100 lỗ/giàn đã sử dụng để giám định hết. Còn 03 giàn pháo loại 100 lỗ/giàn; 04 túi nilon màu đen dùng để bọc pháo; 01 túi nilon màu trắng và 01 bao tải dứa màu xanh dùng để đựng pháo; 01 chiếc gùi hàng được làm bằng bao tải dứa màu xanh đen buộc với dây thừng màu vàng đã tiêu hủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 61 ngày 30/10/2018 của Cơ quan Điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng được niêm phong trong 01 (một) phong bì dán kín, mặt trước có dòng chữ viết tay “Tiền công vận chuyển”, chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại vị trí niêm phong sau giám định, bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn C 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu vỏ màu xanh đen, model: 105, số IMEI: 351867/07/230126/7 và 01 sim điện thoại Viettel.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2018).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;