Bản án 04/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc H, sinh ngày 21/12/1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thuờng trú: 155/2 tổ 4, khu phố P, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và Nguyễn Thị T, sinh năm: 1950; Tiền án: Bản án số 2337/2009/HSST ngày 27/8/2009 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2014; chưa đuợc xóa án tích;

Tiền sự:

- Ngày 01/11/2017 bị Công an thị trấn Cần Thạnh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 31/8/2018 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Cần Thạnh ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi nhiều lần sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 03/10/2018 bị Công an thị trấn Cần Thạnh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/10/2018 và có mặt.

* Người bị hại: Nguyễn Trần A, sinh ngày 14/10/2001(có mặt)

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Ngọc Ng, sinh năm: 1978 (có mặt)

Cùng hộ khẩu thường trú: tổ 9, khu phố G, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cùng chỗ ở: 168/1 khu phố M, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10 năm 2016, Nguyễn Trần A, sinh ngày 14/10/2001, đang là học sinh, có quan hệ tình cảm với Nguyễn Quốc H, sinh năm 1988. Nên vào khoảng 21 giờ, ngày 14 tháng 12 năm 2016 sau khi H chở A đi chơi thì H và A đã tự nguyện quan hệ tình dục với nhau tại nhà của H ở số 155/2 tổ 4, khu phố Phong Thạnh, thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, dẫn đến A có thai. Sau đó A và H sống chung như vợ chồng để lo cho con. Ngày 24/9/2017, tại bệnh viện Từ Dũ, Thành phố Hồ Chí Minh, A sinh một bé trai đặt tên Nguyễn Q A. Do H không lo chí thú làm ăn giúp đỡ A nuôi con mặt khác còn sử dụng ma túy nhiều lần đe dọa gia đình A nên ngày 04/7/2018 Nguyễn Trần A đã gửi đơn tố cáo Nguyễn Quốc H đã thực hiện hành vi giao cấu với mình khi chưa đủ 16 tuổi.

- Kết luận giám định pháp y về ADN số: 1.220A - 2018/AND, ngày 08/8/2018 của Trung tâm giám định pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Nguyễn Trần A là người mẹ sinh học của Nguyễn Q A.

- Kết luận giám định pháp y về tình dục số: 109/TD.18, ngày 16/8/2018 của Trung tâm giám định pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

+ Màng trinh: Dãn rộng. Rách cũ tại các vị trí 3 giờ, 7 giờ và 9 giờ

+ Không thấy tinh trùng trong dịch phết âm đạo.

+ Không phát hiện tế bào người nam trong âm đạo.

+ Không phát hiện kháng thể kháng HIV trong máu.

- Kết luận giám định pháp y về sức khỏe số 42/SK18, ngày 20/8/2018 Trung tâm giám định pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: không phát hiện kháng thể kháng HIV trong máu của Nguyễn Q A.

- Kết luận giám định pháp y về ADN số: 1.220B - 2018/AND, ngày 19/9/2018 của Trung tâm giám định pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Nguyễn Quốc H là người cha sinh học của Nguyễn Q A.

Quá trình điều tra, Nguyễn Trần A khai nhận ngoài lần tự nguyện giao cấu ngày 14/12/2016, thì sau đó A và H đã nhiều lần tự nguyện giao cấu với nhau tại nhà của H và nhà mẹ A thuộc khu phố Giồng Ao, thị trấn Cần Thạnh.

Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận chỉ giao cấu với A một lần vào ngày 14/12/2016. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ tiến hành đối chất giữa Nguyễn Quốc H và Nguyễn Trần A. Kết quả H khai nhận chỉ giao cấu với A một lần vào ngày 14/12/2016.

Về trách nhiệm dân sự nguời bị hại không yêu cầu bồi thuờng.

Cáo trạng số 06/CT-VKS-H.CG ngày 25/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện cần Giờ truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Giao cấu với trẻ em” theo Điểm d Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc H khai nhận sau khi hai bên gia đình đồng ý cho A và H sống chung thì H và A nhiều lần quan hệ tình dục với nhau. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và áp dụng thêm tình tiết phạm tội nhiều lần được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo H chua được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội thuộc truờng hợp quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáoH sau khi biết A có thai đã có trách nhiệm cùng với gia đình chăm lo cho A và con nên thuộc truờng hợp nguời phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, có thái độ thành khẩn khai báo đuợc quy định tại Điểm b,s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại Điểm a, d Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H mức hình phạt từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018. Về trách nhiệm dân sự: Nguời bị hại không yêu cầu bồi thuờng nên không đề nghị xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc H thừa nhận hành vi như cáo trạng là đúng, không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đuợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhu sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cần Giờ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ, Điều tra viên, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và nguời tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và nguời tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra đều thống nhất với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập đuợc cũng nhu diễn biến tại phiên tòa. Do H và A có quan hệ tình cảm với nhau nên ngày 14 tháng 12 năm 2016 H và A đã tự nguyện quan hệ tình dục với nhau tại nhà của H dẫn đến A có thai. Nhưng hành vi của bị cáo H quan hệ tình dục với A lúc đó A dưới 16 tuổi và làm A có thai đã đủ yếu tố cấu thành tội Giao cấu với trẻ em quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Trong giai đoạn điều tra H không thừa nhận việc nhiều lần quan hệ tình dục với A như lời khai của A nhưng tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận. Do đó việc đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng thêm tình tiết phạm tội nhiều lần theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là phù hợp. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Giao cấu với trẻ em” theo Điểm d Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng nguời, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Quốc H đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức đuợc hành vi của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với thuần phong mỹ tục nhưng vì sự ham muốn và để thỏa mãn dục vọng tức thời nên bị cáo cố tình phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm, tâm sinh lý và sự phát triển bình thuờng của bị hại, hành vi của bị cáo còn gây tâm lý hoang mang cho những bậc cha mẹ có con đang trong độ tuổi như bị hại và ngoài ra còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và gây xáo trộn trong đời sống bình thuờng của xã hội.

Xét về nhân thân: bị cáo có 3 tiền sự, có 01 tiền án chưa đuợc xóa án tích.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nguyễn Quốc H sau khi được gia đình cho phép bị cáo đã chăm lo cho bị hại và cùng bị hại nuôi con, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại Điểm b,s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo H chưa được xóa án tích của Bản án số 2337/2009/HSST ngày 27/8/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội cố ý gây thương tích quy định tại khoản 3 Điều 104 mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý. Do đó hành vi của Nguyễn Quốc H thuộc truờng hợp tái phạm nguy hiểm đuợc quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; xét nhân thân của bị cáo và khả năng tự cải tạo giáo dục của bị cáo; Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội để nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

Căn cứ vào Điểm a, d Khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.

Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo A hành án.

2. Về án phí: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bào chữa cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Hùng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; xét nhân thân của bị cáo và khả năng tự cải tạo giáo dục của bị cáo; Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội để nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giờ - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;