TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 04/2019/DS-PT NGÀY 08/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 276/2018/TLPT-DS ngày 10/12/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 123/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện G bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 830/2018/QĐ-PT ngày 17/12/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Trần Thế V, sinh năm 1975 (có mặt);
2. Bà Lê Ngọc Ph, sinh năm 1981 (vắng mặt);
Bà Ph ủy quyền cho ông V tham gia tố tụng.
Cùng địa chỉ: Ấp 8, xã PL, huyện G, tỉnh Bến Tre
- Bị đơn:
1. Ông Trần V Tr , sinh năm 1963 (có mặt);
2. Bà Võ Thị L, sinh năm 1968 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp 8, xã PL, huyện G, tỉnh Bến Tre
Người đại diện theo ủy quyền của ông Tr, bà L: Ông Nguyễn Trường G, sinh năm 1980; địa chỉ: số 478C, khu phố 3, đường Ca V Tỉnh, phường PK, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre (có mặt).
Người kháng cáo: Ông Trần V Tr
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
Nguyên đơn do ông Trần Thế V đại diện trình bày: Từ năm 2012 vợ chồng ông có thỏa thuận bán thức ăn chăn nuôi cho vợ chồng ông Trần V Tr, bà Võ Thị L. Trong khoảng thời gian này, vợ chồng ông Tr thanh toán tiền cho vợ chồng ông đầy đủ. Từ năm 2013 trở về sau thì mỗi lần trả tiền thức ăn từ 01 tháng đến 02 tháng thì vợ chồng ông Tr nợ ông khoảng từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Tính đến ngày 18/4/2018 âm lịch thì ông Tr, bà L còn thiếu vợ chồng ông số tiền 363.984.000 đồng. Ông Tr, bà L có hứa mỗi tháng trả 5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Ngày 21/4/2018 vợ chồng ông Tr ngưng không mua thức ăn của vợ chồng ông nữa và cũng không có thiện chí trả nợ cho vợ chồng ông. Nay ông V, bà Ph yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Tr, bà L liên đới trả một lần cho vợ chồng ông số tiền 363.984.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Đại diện theo ủy quyền cho bị đơn ông Nguyễn Trường G trình bày: Vợ chồng ông Tr, bà L có mua thức ăn gia súc của vợ chồng ông V, bà Ph. Cách thức mua bán là trả tiền mặt, số tiền còn thiếu thì khi heo xuất chuồng sẽ trả dần.Cuối năm 2015 giá heo xuống thấp, số tiền nợ thức ăn lên cao. Vào ngày 06/6/2016 ông V thỏa thuận với vợ chồng ông Tr, bà L không bán thiếu thức ăn nữa mà phải mua bằng tiền mặt và phải trả nợ cũ mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Tháng 10/2016 giá heo xuống thấp, ông V lại yêu cầu trả tiền mặt mới bán tiếp thức ăn và cắt thức ăn không bán cho vợ chồng ông Tr, bà L và không chịu nhận hàng tháng số tiền 5.000.000 đồng giống như đã thỏa thuận. Ông Tr, bà L thừa nhận còn thiếu nợ vợ chồng ông V số tiền 363.984.000 đồng nhưng do nợ nần rất nhiều, giá heo xuống thấp nên ông bà xin được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 123/2017/DS-ST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện G quyết định:
Áp dụng Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L phí Toà án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thế V và bà Lê Ngọc Ph. Buộc ông Trần V Tr và bà Võ Thị L có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Trần Thế V và bà Lê Ngọc Ph số tiền 363.984.000 đồng (ba trăm sáu mươi ba triệu chín trăm tám mươi bốn ngàn đồng). Ghi nhận ông V, bà Ph không yêu cầu ông Tr, bà L phải trả lãi đối với số tiền trên.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/11/2017 ông Trần V Tr kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, ông Tr yêu cầu được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Tại phiên Toà phúc thẩm vợ chồng ông V, bà Ph giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu vợ chồng ông Tr trả số tiền 363.984.000 đồng. Ông Tr giữ quan điểm kháng cáo, xin được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng theo pháp luật tố tụng. Về nội dung: kháng cáo của ông Tr là không có căn cứ, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308, y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Quá trình giải quyết vụ các bên thống nhất vợ chồng ông Tr, bà L còn nợ của vợ chồng ông V, bà Ph số tiền mua thức ăn gia súc là 363.984.000 đồng. Vợ chồng ông V yêu cầu vợ chồng ông Tr trả một lần toàn bộ số tiền trên, không yêu cầu lãi suất. Vợ chồng ông Tr đồng ý trả toàn bộ số tiền trên nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên xin được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Xét kháng cáo của ông Tr, HĐXX nhận thấy: việc mua bán giữa các bên là tự nguyện và số tiền nợ mà vợ chồng ông V yêu cầu trả được vợ chồng ông Tr thừa nhận. Ông V đã nhiều lần đòi nợ nhưng vợ chồng ông Tr không có thiện chí trả nợ nên ông V, bà Ph khởi kiện. Ông Tr cho rằng hai bên có thỏa thuận miệng để cho vợ chồng ông trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng với điều kiện là vợ chồng ông Tr phải tiếp tục mua thức ăn của ông V. Tại phiên tòa phúc thẩm và trước đây, ông Tr cho rằng ông không vi phạm thỏa thuận. Tuy nhiên ông Tr không có gì để chứng minh thỏa thuận này nên yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông V là có căn cứ. Bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Ph để buộc ông Tr, bà L phải trả số tiền 363.984.000 đồng là phù hợp. Do đó, kháng cáo của ông Tr không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát. Kháng cáo của ông Tr được chấp nhận nên ông Tr phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Khoản 1, Điều 308, Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần V Tr, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 123/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện G.Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thế V và bà Lê Ngọc Ph. Buộc ông Trần V Tr và bà Võ Thị L liên đới trả cho ông Trần Thế V và bà Lê Ngọc Ph số tiền 363.984.000 đồng (ba trăm sáu mươi ba triệu chín trăm tám mươi bốn ngàn đồng). Ghi nhận ông V, bà Ph không yêu cầu ông Tr, bà L phải trả lãi đối với số tiền trên.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành án thì còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Trần V Tr và bà Võ Thị L có trách nhiệm liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 18.199.200 đồng (mười tám triệu một trăm chín mươi chín ngàn hai trăm đồng).
Ông Trần Thế V và bà Lê Ngọc Ph được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 9.099.600 đồng (chín triệu không trăm chín mươi chín nghìn sáu trăm đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, L phí Tòa án số 0018286 ngày 10/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.
3. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Trần V Tr phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số0021263 ngày 30/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G là đủ.
Trường hợp quyết định, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2019/DS-PT ngày 08/01/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 04/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về