TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 26/12/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2018/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Song T, sinh ngày 29/6/1976 tại Thái Bình.
Nơi cư trú: Số nhà 18, ngõ 93, đường N, tổ 31, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Tích L và bà: Vũ Thị N; Bị cáo chưa có vợ, con; nhân thân: Quyết định số 411/QĐ - UBND ngày 15/01/2010 và Quyết định số 608/QĐ - UBND ngày 25/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội thành phố Thái Bình đều trong thời gian 12 tháng vì nghiện ma túy; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2018 cho đến nay.
* Người chứng kiến:
1. Ông Nhâm Văn T, sinh năm 1958.
Trú tại: Số nhà 05/06/13, đường L, tổ 31, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
2. Ông Vũ Thế D, sinh năm 1960.
Trú tại: Số nhà 03, ngõ 17, tổ 12B, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
(Bị cáo có mặt, ông T, ông D đều vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 12/10/2018, Nguyễn Song T đi bộ từ nhà đến khu vực Quảng trường 14/10, tổ 01, phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình, mục đích mua ma túy để sử dụng. Đến nơi T gặp và mua của 01 người nam giới khoảng 50 tuổi không biết tên, địa chỉ 300.000 đồng được 03 gói ma túy, loại hêrôin. T cất giấu 03 gói ma túy vào túi quần hậu bên trái rồi đi tìm chỗ sử dụng. Khoảng 07 giờ 15 phút cùng ngày, T đi đến đường Lê Lợi, khu vực tổ 19, phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình thì bị tổ công tác Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Nhâm Văn T và ông Vũ Thế D, T đã tự giác lấy từ túi quần hậu bên trái 03 gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai nhận đó là hêrôin của T mua về sử dụng. Kiểm tra người T, thu tại túi quần hậu bên phải 01 ví giả da màu đen, bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Song T, thu tại túi quần bên trái 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Song T khai nhận đúng như bản cáo trạng đã mô tả. Bản cáo trạng số 196/KSĐT ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Song T về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Về hình phạt: Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.
* Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số hêrôin còn lại sau giám định là 0,1818gam.
- Trả lại bị cáo 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng, 01 đăng ký xe mô tô, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Nguyễn Song T.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo không khiếu nại hay có ý kiến gì.
[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang;
- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ;
- Bản kết luận giám định số 372/KLGĐ - PC09 ngày 12/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng thu giữ của Nguyễn Song T, sinh năm 1976, ĐKHKTT: Số nhà 18, ngõ 93, đường N, tổ 31, phường T, thành phố T ngày 12/10/2018” là ma túy, loại hêrôin, có khối lượng 0,2100 gam;
- Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người chứng kiến ông Nhâm Văn T và ông Vũ Thế D.
Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 12/10/2018, tại đường Lê Lợi, khu vực tổ 19, phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình, Nguyễn Song T có hành vi tàng trữ trái phép trong người 03 gói ma túy, loại hêrôin, có khối lượng 0,2100 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân bị Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)..................................................................................................................;
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
..........................................................................................................................
[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2010 và năm 2013 bị Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình quyết định đưa vào Trung tâm giáo dục, lao động, xã hội. Bị cáo không có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo được nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương kháng chiến, các tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, lượng ma túy tàng trữ ít, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về vật chứng của vụ án:
- Số Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1818 gam trong phong bì niêm phong số 372/KLGĐ ngày 12/10/2018 thu giữ của Nguyễn Song T, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
- Các tài sản, giấy tờ không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo gồm: 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng, 01 đăng ký xe mô tô, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Nguyễn Song T.
[7] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Nguyễn Song T khai mua của một người nam giới khoảng 50 tuổi không biết tên, địa chỉ tại khu vực Quảng trường 14/10, tổ 01, phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Song T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Song T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.
3/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Trả lại bị cáo 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng, 01 đăng ký xe mô tô, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Nguyễn Song T.
- Tịch thu tiêu hủy số hêrôin còn lại sau giám định là 0,1818gam trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 372/KLGĐ ngày 12/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.
(Vật chứng của vụ án Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 29/11/2018).
4/ Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/12/2018).
Bản án 04/2018/HSST ngày 26/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 04/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về