TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2018 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Vào hồi 14 giờ ngày 30/01/2018, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2017/TLST- HNGĐ ngày 20/10/2017 về việc tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 17/01/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn : Chị Trần Thị Hồng Â, sinh năm 1985; trú tại: TDP4, thị trấn VQ, huyện VQ, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Cán bộ - Có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Anh Phạm Quý D, sinh năm: 1983; trú tại: Thôn TS, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do - Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 20/10/2017 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trần Thị Hồng  trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Tôi kết hôn với anh Phạm Quý D trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có được tự do tìm hiểu, không bị ai ép buộc. Đăng ký kết hôn vào ngày 28/11/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống với bố mẹ chồng tại thôn TS, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ chồng chung sống hoà thuận hạnh phúc được 1 năm thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn là sau khi sinh con được 3 tháng tuổi chúng tôi quyết định để anh D đi làm ăn ở nước ngoài, thời gian sống ở nước ngoài anh D thường xuyên gọi điện nhắn tin chửi bới xúc phạm tôi cùng với gia đình và cũng không cung cấp tiền nuôi dưỡng con. Sau đó anh D về nước và xin lỗi tôi tôi đã bỏ qua, được một thời gian ngắn thì anh D gây sự vô cớ đánh đập tôi và xúi mẹ anh đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà. Từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nữa. Vợ chồng đã sống ly thân nhau 2 năm. Nay, tôi (Â) xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên đề nghị Toà án giải quyết cho tôi (Ân) được ly hôn anh Phạm Quý D.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên là Phạm Vũ Trường H, sinh ngày: 22/10/2012. Nếu ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi con chung và yêu cầu anh Phạm Quý D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng. Phương thức cấp dưỡng hàng năm.
- Về tài sản: Vợ chồng chưa có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai anh Phạm Quý D trình bày: Tôi kết hôn với chị Trần Thị Hồng  trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Đức Hòa huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Sau kết hôn vợ chồng chung với nhau tại thôn Tân Sơn xã ĐH, tình cảm vợ chồng hòa thuận được 01 năm thì nảy sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẩn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm. Nay, chị  làm đơn ly hôn, tôi cũng nhất trí ly hôn.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Phan Vũ Trường H, sinh ngày 22/10/2012, nếu ly hôn giao con chung cho chị Â trực tiếp nuôi dưỡng về phần cấp dưỡng nuôi con tôi không cấp dưỡng.
- Về tài sản và khoản nợ: Vợ chồng chưa có tài sản chung và hiện nay không nợ ai cũng không ai nợ nên không yêu cầu giải quyết.
Tại phiên tòa chị Trần Thị Hồng  giữ nguyên yêu cầu ly hôn và được trực tiếp nuôi con nhưng không yêu cầu về phần cấp dưỡng. Còn Phạm Quý D có đơn xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu có tại hồ sơ cũng như kết quả thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là quan hệ tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Hồng Â; trú tại: TDP4, thị trấn VQ, huyện VQ, tỉnh Hà Tĩnh và bị đơn anh Phạm Quý D; trú tại: Thôn TS, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 30/12/2017 anh Phạm Quý D có đơn gửi đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt vì lý do anh đi làm ăn xa không thể về tham gia tố tụng được nên vụ án không hòa giải được. Tại phiên tòa anh D có đơn xin xét xử vắng mặt, theo quy định tại Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử chấp nhận đơn đề nghị xử vắng mặt của anh Phạm Quý D.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng  và anh Phạm Quý D kết hôn với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có được tự do tìm hiểu, không bị ai ép buộc có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 28/11/2011. Lời trình bày của anh chị phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn do UBND xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh cấp và lưu tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống tại thôn TS, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ chồng chung sống hoà thuận hạnh phúc được 1 năm thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn là do tính tình hai người không phù hợp, thiếu sự chăm sóc và tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng đã sống ly thân 2 năm. Tại phiên tòa chị Trần Thị Hồng  vẫn giữ nguyên như yêu cầu. Còn anh Phạm Quý D vắng mặt nhưng trong bản tự khai anh D cũng thừa nhận cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không hạnh phúc nên anh cũng chấp nhận ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẩn giữa hai người đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xử cho chị Trần Thị Hồng  được ly hôn anh Phạm Quý D theo quy định tại Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Tại bản tự khai các đương sự đã trình bày thống nhất vợ chồng có một con chung Phạm Vũ Trường H, sinh ngày 20/10/2012. Tại phiên tòa chị Â có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Phạm Quý D cấp dưỡng nuôi con, còn anh Phạm Quý D vắng mặt. HĐXX thấy hiện nay, cháu Hải đang ở cùng với chị Â và khả năng nuôi dạy con cái của chị Â đảm bảo nên giao con chung Phạm Vũ Trường H, sinh ngày 20/10/2012 cho chị Â trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.
Về phần cấp dưỡng nuôi con chị Trần Thị Hồng Âkhông yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.
[4] Về tài sản: Vợ chồng chưa có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về khoản nợ: Vợ chồng không vay nợ ai cũng như không ai vay nợ vợ chồng, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Â phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; chị Â được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với anh D vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Khoản 1, 2 Điều 81; Khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014:
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Hồng  được ly hôn anh Phạm Quý D.
2.Về con chung: Giao con chung Phạm Vũ Trường H, sinh ngày 20/10/2012 cho chị Trần Thị Hồng  trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Chị Trần Thị Hồng  không yêu cầu anh Phạm Quý D cấp dưỡng nuôi con.
Anh Phạm Quý D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Áp dụng Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm b Khoản 1 Điều 3; Điều 6; Điểm a Khoản 1 Điều 24; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án năm 2016 xử buộc:
Chị Trần Thị Hồng  phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm; số tiền này chị  đã nộp đủ theo biên lai thu tiền số 003204 ngày 20/10/2017 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh.
Án xử công khai có mặt nguyên đơn chị Trần Thị Hồng Â, vắng mặt bị đơn anh Phạm Quý D.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 04/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về