Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 228/2017/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Chị Đường Thị T, sinh năm 1994 (có mặt)

Địa chỉ cư trú: Thôn N, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc

2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1987 (vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/9/2017 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đường Thị T trình bày: Chị kết hôn với anh Lê Văn T ngày 14/11/2013 trước khi cưới không được tìm hiểu mà do hai gia đình dàn xếp (nhưng khi cưới chị Tự nguyện), cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã L. Trước khi lấy anh T, chị làm tại Công ty may Đ ở thị trấn T còn anh T đi làm ăn ở tỉnh Lào Cai, cưới xong vợ chồng chị ăn riêng nhưng vẫn ở chung nhà với bố mẹ anh T, tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường. Trong cuộc sống anh T không quan tâm đến mẹ con chị, anh nghiện ma túy tháng 9/2015 vợ chồng sẩy ra mâu thuẫn nguyên nhân do con bị sốt cháu khóc quấy chị lấy cặp nhiệt độ không may bị vỡ sau đó anh T đánh chị nên chị bế con về mẹ đẻ ở từ đó cho đến nay. Hiện nay anh T vẫn ở nhà nhưng không đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn nhằm gây khó khăn cho chị, thực tế chị và anh T đã sống ly thân từ tháng 9/2015 nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh T.

Bị đơn anh Lê Văn T vắng mặt nên không lấy được lời khai, nhưng theo biên bản lấy lời khai ngày 21/11/2017 ông Lê Văn T1 (bố anh T) trình bày: Năm 2013 gia đình ông tổ chức lễ cưới cho anh T và chị T, trước khi cưới anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, cưới xong chị T về làm dâu gia đình ông và anh chị ra ăn riêng ngay nhưng vẫn ở chung nhà với gia đình ông tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường. Quá trình chung sống chị T ngoan không có mâu thuẫn gì với gia đình ông, hai anh chị cũng không có mâu thuẫn gì trước kia anh T có nghiện ma túy nhưng nay không còn nghiện nữa. Anh T làm thợ xây nên thỉnh thoảng đi làm ở Hà Nội, Lào Cai song lại làm ở nhà, hộ khẩu của anh T vẫn ở gia đình ông. Anh T và chị T sống ly thân từ tháng 9/2015, anh T hiện vẫn ở nhà nhưng khi Tòa án vào nhà làm việc thì anh đi đâu ông không biết. Gia đình có nhận được thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập của Tòa án gửi cho anh T, gia đình đã đưa giấy cho anh T nhưng anh T không xuống Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị T. Nay chị T xin ly hôn anh T ông đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung là cháu Lê Thị T sinh ngày 22/02/2015, nay cháu đang ở với chị T, ly hôn chị xin nuôi cháu T không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Chị T và anh T không có gì.

Công nợ: Chị T không nợ ai và không cho ai vay tài sản gì.

Tài sản riêng, đất canh tác và công sức: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Văn T1 (bố anh T) khai: Anh T và chị T có 01 con chung như chị T trình bày là đúng, nay chị T xin ly hôn anh T do anh chị quyết định ông không có ý kiến gì. Về tài sản chung, anh T và chị T không có gì. Về công nợ, anh T và chị T nợ ai hay cho ai vay tài sản gì ông không biết. Về công sức, chị T không có đóng góp gì nên không có công sức.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đề nghị: Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Đường Thị T được ly hôn với anh Lê Văn T. Tiếp tục giao cháu Lê Thị T, sinh ngày 22/02/2015 cho chị T chăm sóc, giáo dục anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T, anh T được quyền thăm nom con chị T không được ngăn cản. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định củapháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng dân sự: Chị Đường Thị T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết việc hôn nhân của chị và anh T theo quy định tại Điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Về sự vắng mặt của anh T tuy không lấy được lời khai của anh T nhưng Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các giấy tờ hợp lệ cho gia đình anh T nhận, vì vậy căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với đương sự trên.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Năm 2013 chị Đường Thị T kết hôn với anh Lê Văn T trên cơ sở tự nguyện, trước khi cưới có tìm hiểu có đăng ký kết hôn là cuộc hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nên đã có 01 con chung, trong quá trình chung sống do anh T không quan tâm đến vợ con và nghiện ma túy dẫn đến tình cảm vợ chồng dạn nứt, mặc dù chị T động viên khuyên bảo anh T nhiều lần nhưng anh không từ bỏ được ma túy từ đó chị đâm  chán nản nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9/2015. Tòa án đã báo gọi nhiều lần nhưng anh T không đến làm việc nhằm gây khó khăn cho chị T. Xác minh tại địa phương được biết anh T nghiện ma túy, ham chơi không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Anh T hiện nay vẫn ở địa phương, anh chị sống ly thân đã lâu nên tình cảm không hàn gắn được đề nghị Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn anh T. Ông Lê Văn T1 (bố anh T) cho biết anh T vẫn ở nhà nhưng khi Tòa án vào nhà làm việc thì anh đi đâu ông không biết, nay chị T xin ly hôn anh T ông đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Thực tế chị T và anh T đã sống ly thân từ tháng 9/2015 cho đến nay, điều đó chứng tỏ rằng tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là thực tâm. Vì vậy căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình giải quyết cho chị T được ly hôn với anh T là phù hợp.

[2]. Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung là cháu T hiện nay cháu còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ, hiện nay cháu T đang ở với chị T ly hôn chị T xin nuôi cháu T nên chấp nhận là phù hợp. Vì vậy cần áp dụng Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu T đến khi trưởng thành hoặc khi chị T, anh T có yêu cầu khác. Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3]. Tài sản chung: Chị T, anh T không có gì.

[4]. Công nợ: Chị T không nợ ai và không cho ai vay tài sản gì.

[5]. Tài sản riêng, đất canh tác, công sức: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đường Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo bản án các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban  thường vụ  Quốc hội  ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Đường Thị T được ly hôn với anh Lê Văn T.

Con chung: Chị Đường Thị T tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lê Thị T, sinh ngày 22/02/2015 đến khi trưởng thành hoặc khi anh T có yêu cầu khác. Chị Đường Thị T không yêu cầu anh Lê Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Tài sản chung: Chị Đường Thị T và anh Lê Văn T không có gì.

Công nợ: Chị Đường Thị T không nợ ai và không cho ai vay tài sản gì.

Tài sản riêng, đất canh tác và công sức: Chị Đường Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đường Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2016/0004022 ngày 03/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường, Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Văn T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:04/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;