TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 04/2017/ST-HNGĐ NGÀY 20/12/2017 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN
Trong ngày 20 tháng 12 năm 2017. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh CB xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2016/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2016 về tranh chấp: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản”. Theo quyết định đa vụ án ra xét xử số: 05/2017/DSST-QĐ ngày 06 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Ban Thị T, sinh năm 1980. Trú tại: Trường tiểu học TB, xã HG, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nông Văn D - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tân trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
Bị đơn: Anh Lý Văn Th, sinh năm 1981. Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CCB.
(Có mặt tại phiên tòa)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lý Triệu C. Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
2. Bà Nông Thị L. Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
3. Ông Mông Văn B. Trú tại: Xóm PG, xã CB, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
4. Ông Quan Văn H. Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
5. Ông Ban Hữu L. Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
6. Bà Mê Thị H. Trú tại: Xóm KL, xã HT, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
7. Bà Lục Thị H. Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
8. Ông Nông Phúc D. Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
9. Bà Ban Thị H. Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
10. Ông Hoàng Văn T. Trú tại: Xóm NC, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh CB.
(Có mặt tại phiên tòa)
11. Bà Ban Thị L. Trú tại: Xóm CH, xã HT, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
12. Bà Nông Thị S. Trú tại: Xóm NS, xã KC, huyện BL, tỉnh CB.
(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do)
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án chị Ban Thị T trình bày: Tôi và anh Lý Văn Th kết hôn với nhau từ năm 2000, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu lẫn nhau, có tổ chức lễ cưới tại hai bên gia đình theo phong tục tập quán địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã HT, huyện BL, tỉnh CB, khi cưới cả hai đang ở nhà chưa có công ăn việc làm ổn định. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian dài, đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, anh Th nghi ngờ tôi có quan hệ ngoại tình nên thường xuyên đánh đập tôi, mâu thuẫn xảy ra trầm trọng và thường xuyên, chúng tôi sống ly thân từ 2015 cho đến nay. Tại tòa hôm nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể khắc phục được và yêu cầu được ly hôn.
Anh Lý Văn Th trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị T trình bày là đúng, tôi không có gì cần bổ sung; Tại Tòa hôm nay chị T yêu cầu được ly hôn tôi nhất trí ly hôn vì không còn tình cảm vợ chồng với nhau nữa.
Về con chung: Cả hai bên đương sự đều xác nhận có hai người con chung đó là: Cháu Lý Triệu Quế C sinh ngày 03/10/2000 và cháu. Lý Triệu Quế H sinh 03/10/2006. Khi ly hôn hai bên đương sự không thống nhất được với nhau việc nuôi con. Chị T yêu cầu được nuôi cả hai người con chung và yêu cầu anh Th phải có trách nhiệm đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ/1 người con chung cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Th yêu cầu được nuôi mỗi người một con và không đặt ra vấn đề đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Cụ thể anh Th sẽ nhận trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lý Triệu Quế Hân và Chị T sẽ trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lý Triệu Quế G cho đến khi các con đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung:
+ Chị Ban Thị T trình bày: Chúng tôi có một ngôi nhà 4 tầng dựng trên diện tích đất được bố mẹ đẻ anh Th chia cho vợ chồng chúng tôi, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cả hai vợ chồng là Lý Văn Th và Ban Thị T, đất và nhà có địa chỉ tại Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB. Khi ly hôn về ngôi nhà được yêu cầu được chia đôi bằng giá trị, anh Th sẽ là người trực tiếp quản lý và sử dụng, về giá trị của ngôi nhà tôi yêu cầu được định giá tài sản để đưa ra mức giá theo quy định của pháp luật.
+ Anh Lý Văn Th trình bày: Về tài sản chung chúng tôi có một ngôi nhà dựng trên phần đất của bố mẹ như chị T trình bày là đúng, khi ly hôn tôi nhất trí chia tài sản chung là ngôi nhà cho chị T nhưng không nhất trí chia đôi vì công sức đóng góp nên ngôi nhà có phần đóng góp của bố mẹ đẻ tôi là ông Lý Triệu C, bà Nông Thị L và em trai tôi là Lý Triệu T. Khi ly hôn yêu cầu được định giá tài sản, trừ đi phần đóng góp công sức của bố mẹ và em trai tôi, phần còn lại sẽ đem chia đôi. Ngoài ra phần nền nhà là của bố mẹ tôi cho tôi, nên cần định giá để trả tiền đất cho bố mẹ tôi.
Tại các buổi hòa giải các bên đương sự không thống nhất được với nhau về giá trị tài sản và mức đóng góp hình thành lên khối tải sản chung của vợ chồng. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu các bên làm đơn yêu cầu định giá tài sản để Tòa án thành lập Hội đồng định giá và các bên đương sự phải thực hiện nghĩa vụ nộp chi phí định giá tài sản theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các bên đương sự không thực hiện nghĩa vụ của mình theo yêu cầu của Tòa án. Tại phiên tòa hôm nay các bên nhất trí phần tài sản không yêu cầu Tòa án xem xét mà để giải quyết bằng vụ án khác.
- Về trách nhiệm dân sự:
+ Chị Ban Thị T trình bày: Chúng tôi có các khoản nợ chung như sau: Ông Mông Văn B Trú tại: Xóm NT, xã CB, huyện BL, tỉnh CB với số tiền nợ gốc là: 48 triệu đồng. Tôi đã thanh toán cho anh B được 24 triệu, nay phần còn lại anh Th có phải thanh toán cho anh B số tiền còn lại; ông Quan Văn H trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB số tiền 25.000.000đ; ông Ban Hữu L, trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB số tiền 9.000.000đ; Bà Mê Thị H, trú tại: Xóm KL, xã HT, huyện BL, tỉnh CB số tiền 17.000.000đ; Bà Lục Thị H, trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB 05 tấn xi măng; ông Nông Phú D, trú tại: Xóm BR, xã HD, huyện BL, tỉnh CB 05 tấn xi măng (Tương đương 8.000.000đ); Bà Ban Thị H, trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB 02 tấn xi măng, Ông Hoàng Văn T, trú tại: Xóm NC, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh CB số tiền 30 triệu đồng; Bà Ban Thị L, trú tại: Xóm CH, xã HT, huyện BL, tỉnh CB số tiền 20.000.000đ; Bà Nông Thị S, trú tại: Xóm NS, xã KC, huyện BL, tỉnh CB 10.000.000đ; Ngân hàng nông nghiệp huyện BL, tỉnh CB số tiền 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng) số tiền này đã được trả hết qua tài khoản lương của tôi.
+ Anh Lý Văn Th trình bày: Ngoài những khoản nợ trên ra chúng tôi còn các khoản nợ chung sau: Nợ ông Lý Triệu C và bà Nông Thị L, Lý Triệu T 50.000.000đ, Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện BL CB số tiền: 30.000.000đ Nay tôi đã trả hết số tiền Ngân hàng chính sách. Còn đối với số tiền nợ anh B tôi xác nhận hai vợ chồng cùng được đi mượn nhưng tôi không có trách nhiệm trả vì số tiền trên tôi không được biết chị T mang đi đâu và làm gì, khi vay số tiền với anh B mục đích vay là để chạy xin chuyển trường cho chị T về gần nhà, nhưng sau đó không xin chuyển trường mà chị T mang đi đâu tôi không biết.
Tại phiên tòa anh Th và Chị T tự nguyện thỏa thuận và thống thống nhất về trách nhiệm trả nợ như sau:
- Chị T sẽ có trách nhiệm trả các khoản nợ sau: Nông Văn B, Mê Thị H, Ban Hữu L, Nông Phúc D; Ban Thị H; Ban Thị L, Nông Thị S.
- Anh Lý Văn Th nhận trách nhiệm trả: Lý Triệu T, Quan Văn H, Hoàng Văn T, Lục Thị H,
- Ông Mông Văn B trình bày: Tôi cho anh Th và chị T vay tiền số tiền gốc là: 48 triệu vào ngày 15/01/2015 Chị T đã thanh toán cho tôi được số tiền 24.000.000đ, nay còn phải thanh toán số tiền gốc 24.000.000đ và tiền lãi tính từ ngày vay cho đến ngày xét xử. Nay chị T nhận trách nhiệm trả, tôi nhất trí.
- Ông Quan Văn H trình bày: Tôi cho anh Th và chị T vay tiền để làm nhà, số tiền cho vay là: 25.000.000đ, lãi suất 1%/1 tháng, thời gian vay là 01/5/2015. Nay anh Th nhận trách nhiệm trả, tôi nhất trí.
- Ông Hoàng Văn T trình bày: Anh Th và chị T còn nợ tiền công xây dựng của tôi là 30.000.000đ, tôi không yêu cầu tính lãi. Nay anh Th nhận trách nhiệm trả tôi hoàn toàn nhất trí.
- Ông Lý Triệu C và bà Nông Thị L trình bày: Chúng tôi là bố mẹ để của Lý Văn Th, khi Th và T làm nhà vì là con và dâu trong nhà nên chúng tôi đã chia nền đất cho các con để làm nhà ở, và lúc làm nhà chúng tôi cũng đóng góp một phần công sức và tiền của để giúp vợ chồng Th và T. Nếu vợ chồng Th T bỏ nhau và yêu cầu chia tài sản thì tôi yêu cầu được thanh toán phần tiền nền nhà đất là 600.000.000đ, và tiền đóng góp vật liệu xây dựng gồm: Tiền ván, tiền tre, tiền lợn và gạo; Nếu vợ chồng T Th không yêu cầu chia tài sản mà để cho các con thì tôi không yêu cầu được lấy lại số tiền trên. Ngoài ra tôi yêu cầu chị T phải trả khoản tiền vợ chồng tôi đã đầu tư cho chị T 03 năm học chuyên nghiệp và khoản tiền mua xe máy. Tại phiên Tòa hôm nay tôi C và bà L không yêu cầu xem xét trong vụ án này.
Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Ban Hữu L, bà Mê Thị H, bà Lục Thị H, ông Nông Phúc D, bà Ban Thị H, bà Ban Thị L và bà Nông Thị S. Nhưng tất cả đã được lấy lời khai và có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BL phát biểu quan điểm về việc việc giải quyết vụ án:
+ Về việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử đã vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử;
+ Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng theo quy định của pháp luật luật tố tụng dân sự;
+ Các đương sự: Chấp hành đúng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự;
+ Về quan hệ hôn nhân: Các bên đương sự thuận tình ly hôn, nên căn cứ vào luật hôn nhân và gia đình thì chấp nhận việc thuận tình ly hôn;
+ Về nuôi con chung: Các đương sự không thống nhất về việc trực tiếp nuôi con. Căn cứ vào quy định của pháp luật về việc giao con chung cho người trực tiếp nuôi dưỡng.
+ Về tài sản chung: Các đương sự đều thống nhất không yêu cầu xem xét trong vụ án này.
+ Về trách nhiệm dân sự: Các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc nhận trách nhiệm trả nợ. Nên cần chấp nhận việc thỏa thuận của các đương sự.
Trên đây là quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử ra một bản án đúng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa; Ý kiến và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ban Thị T và anh Lý Văn Th kết hôn từ năm 2000, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HTr, huyện BL, tỉnh CB, có tổ chức lễ cưới theo phong tập quán của địa phương tại hai bên gia đình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian dài, đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do cả hai bên không còn tin tưởng lấn nhau, đã nghi ngờ nhau có mối quan hệ ngoài vợ chồng. Mâu thuẫn xảy ra đã dẫn đến có việc xô xát và đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Tại phiên tòa cả hai bên đương sự đều xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng và nhất trí ly hôn.
Hội đồng xét xử đã kiên trì phân tích giải thích cho hai bên đương sự về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên các bên đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Xét thấy cần chấp nhận việc thuận tình ly hôn.
[2] Về con chung: Chị Ban Thị T và anh Lý Văn Th cùng xác nhận có hai người con chung đó là Lý Triệu Quế G sinh ngày 03/10/2000 và Lý Triệu Quế H sinh ngày 03/10/2006. Khi ly hôn hai bên không thống nhất về việc trực tiếp nuôi con. Chị T yêu cầu được nuôi cả hai người con chung và yêu cầu anh Th phải có trách nhiệm đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ cho một người con cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Anh Th yêu cầu được nuôi mỗi người một người con chung và không đặt ra vấn đề đóng góp phí tổn nuôi con chung. Mặc dù qua việc lấy ý kiến của các cháu đều có nguyện vọng là sống chung với mẹ. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh và thu nhập thực tế của các bên được sự, thấy rằng hiện nay chị T từ khi sống ly thân đến nay đang phải sinh sống nhờ ở nhà bố mẹ đẻ, thu nhập chỉ từ đồng lương của giáo viên (7.902.000đ) không đảm bảo cho sinh hoạt và ăn học của cả hai người con chung. Anh Th mặc dù không có công việc làm ổn định nhưng làm nông nghiệp và đi lái xe thuê. Mặt khác hiện nay anh Th đang là người quản lý trực tiếp ngôi nhà chung của vợ chồng. Vì vậy đảm bảo nuôi được một người con chung. Từ những nhận định trên cần giao cháu Lý Triệu Quế G sinh ngày 03/10/2000 cho chị Ban Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi; Giao cháu: Lý Triệu Quế H cho anh Lý Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.
[3] Về tài sản chung: Tại phiên Tòa các bên nhất trí không yêu cầu xem xét trong vụ án này. Nên Hội đồng xét xử không xem xét phần tài sản chung.
4. Về trách nhiệm, nghĩa vụ dân sự: Chị Ban Thị T và anh Lý Văn Th tự thỏa thuận được với nhau về trách nhiệm trả nợ cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nên cần ghi nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự về trách nhiệm dân sự.
Đối với phần yêu cầu của ông Lý Triệu C và bà Nông Thị L, tại phiên tòa ông C và bà L không yêu cầu xem xét giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét và giải quyết.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ban Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm; Ngoài ra chị T và anh Th còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với số tiền mà các bên phải có trách nhiệm thanh toán cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng:
- Khoản 1 Điều 28 và khoản 4 Điều 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 53, 55, 60, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Áp dụng các Điều 471, 474, 476 và Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005.
- Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009.
2. Tuyên xử:
- Về hôn nhân: Ghi nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Ban Thị T và anh Lý Văn Th.
- Về con chung: Giao cháu Lý Triệu Quế G sinh ngày 03/10/2000 cho chị Ban Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi; Giao cháu: Lý Triệu Quế H sinh ngày 03/10/2006 cho anh Lý Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không xem xét.
4. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của chi Ban Thị T và anh Lý Văn Th như sau:
- Chị Ban Thị T có trách nhiệm trả các khoản nợ sau:
+ Trả ông Nông Văn B - Trú tại: Xóm PG, xã CB, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 24.000.000đ gốc và số tiền lãi là 24.000.000đ x 1,125% x 11 tháng 5 ngày = 3.015.000đ; Tổng số tiền là: 24.000.000d + 3.015.000đ = 27.015.000đ (Hai mươi bảy triệu không trăm mười lăm nghìn đồng)
+ Trả bà Mê Thị H - Trú tại: Xóm KL, xã HT, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 17.000. 000đ (Mười bảy triệu đồng).
+ Trả ông Ban Hữu L - Trú tại: Xóm BR, xã HT, huyện BL, tỉnh CB, số tiền: 9.000.000đ (Chín triệu đồng).
+ Trả ông Nông Phúc D - Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB, 05 tấn xi măng, có trị giá tương đương 8.000.000đ (Tám triệu đồng).
+ Trả bà Ban Thị H - Trú tại: Xóm BR, xã HD, huyện BL, tỉnh CB, 02 tấn xi măng, có trị giá tương đương 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
+ Trả bà Ban Thị L - Trú tại: Xóm CH, xã HT, huyện BL, tỉnh CB, số tiền: 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
+ Nông Thị S - Trú tại: Xóm NS, xã KC, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
- Anh Lý Văn Th nhận trách nhiệm trả khoản nợ sau:
+ Trả ông Lý Triệu T - Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).
+ Trả ông Quan Văn H - Trú tại: Xóm BP, xã HTr, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 25.000.000đ x 1% x 31 tháng 19 ngày = 7.908.333đ; Tổng số tiền là: 32.908.333đ (Ba mươi hai triệu chín trăm linh tám nghìn ba trăm ba mươi ba đồng).
+ Trả ông Hoàng Văn T - Trú tại: Xóm NC, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh CB, số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng)
+ Trả bà Lục Thị H - Trú tại: Xóm BR, xã HĐ, huyện BL, tỉnh CB, 05 tấn xi măng, có giá trị tương đương 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ngày những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu thi hành án nếu chị Ban Thị T và anh Lý Văn Th không thanh toán khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo
Bản án 04/2017/ST-HNGĐ ngày 20/12/2017 về xin ly hôn, nuôi con, chia tài sản
Số hiệu: | 04/2017/ST-HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lạc - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về