Bản án 03/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2024/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo: Cao Văn Đ, sinh năm 2004; nơi cư trú: thôn T, xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; con ông Cao H, sinh năm 1964 và bà Đoạn Thị T, sinh năm 1969; đều trú tại: thôn T, xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2023 đến ngày 19/10/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn "Bảo lĩnh" - Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Bà Lã Thị V, sinh năm 1986; nơi cư trú: thôn H, xã L, huyện Hậu L1, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt.

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1990; nơi cư trú: thôn H, xã L, huyện Hậu L1, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: ông Cao Văn H, sinh năm 2000; nơi cư trú: thôn T, xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị - Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/8/2023, Cao Văn Đ, sinh năm 2004, trú tại thôn T, xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Triệu Phong để khai nhận về hành sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi đánh bạc và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tại Cơ quan điều tra, Cao Văn Đ khai nhận:

Khi vào các trang mạng xã hội, Đ thấy có nhiều người thiết lập ra website có tính năng thu thập thông tin, dữ liệu do người khác nhập vào để lừa đảo, chiếm quyền sử dụng tài khoản Facebook của người khác nên đã nãy sinh ý định tạo ra một website có tính năng tương tự như trên để đánh cắp tài khoản Facebook của người khác nhằm mục đích lừa đảo. Đ nhờ bạn mình là Cao Văn H, sinh năm 2000 trú tại thôn T, xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thiết kế ra website có tên “netdepthanhlich.2023.weebly.com” đồng thời tự mình nghiên cứu, thiết kế ra các website có tên “cuocthibinhchontretho.weebly.com” và nhiều website khác (Cao Văn Đ không còn nhớ cụ thể) có tính năng thu thập dữ liệu như trên. Sau khi có được các website, Đ đã gửi địa chỉ trang website này cho người khác và đề nghị họ truy cập vào website để “bình chọn” giúp. Khi người khác tin tưởng và truy cập vào website trên để bình chọn thì trên website sẽ yêu cầu nhập tài khoản Facebook của mình để có thể “bình chọn”. Nếu người dùng nhập thông tin tài khoản Facebook của mình vào các ô trống theo hướng dẫn và nhấn “đăng nhập” thì toàn bộ thông tin, dữ liệu sẽ được gửi về tài khoản tại website "weebly.com" do Đ quản lý. Tên đăng nhập tại "weebly.com" có dạng Gmail là “binhyennhe123@gmail.com”. Đ truy cập vào tài khoản của mình trên website "weebly.com", sử dụng dữ liệu thu thập được để truy cập vào tài khoản Facebook của người đó sau đó đăng nhập, chiếm đoạt và nhắn tin, lừa đảo tiền của người thân, bạn bè chủ tài khoản Facebook. Để lưu trữ các dữ liệu có liên quan, đặc biệt là tài khoản Facebook mà mình đã chiếm đoạt được thì Đ đã tạo ra một tài khoản Facebook có tên “P” (Id đăng nhập: 10007817768xxxx, mật khẩu là: yeuem1234@) và lưu dữ liệu dưới dạng gửi tin nhắn cho chính tài khoản Facebook này. Mật khẩu tài khoản Facebook mà Đ đã chiếm đoạt được đa số được đổi thành các mật khẩu sau: “12312311abc”, “1231231213qqq”, “12312311a”. Ngày 05/3/2023, Đ đã truy cập vào Facebook để tìm và chiếm quyền sử dụng tài khoản Facebook “N” của anh Phạm Văn N, sinh năm 1984 trú tại H, L, Hậu L1, Thanh Hóa (hiện đang lao động tại Đ Loan). Sau khi tìm người thân của anh N trên trang cá nhân, Đ dùng tài khoản Facebook “N” nhắn tin cho người sử dụng tài khoản Facebook “Vui la thi” của chị Lã Thị V, sinh năm 1986 trú tại H, L, Hậu L1, Thanh Hóa (vợ của anh N) với nội dung “người bạn cùng làm với anh N tại Đ Loan đang có người nhà tại Việt Nam gặp tai nạn, người nhà họ cần tiền gấp và họ đã giao số tiền tương đương 38.000.000 đồng cho anh N, đồng thời đề nghị chị Lã Thị V chuyển tiền cho người nhà của người bạn tại Việt Nam trước, sau đó anh N nhận tiền của người bạn này và sẽ gửi về cho chị V. Do tin là thật nên chị Lã Thị V đồng ý và xin số tài khoản ngân hàng để chuyển tiền. Sau đó, Đ nhắn tin cung cấp tài khoản ngân hàng Ngân hàng Thương mại Quốc tế (VIB) số 280419822 (P) của đại lý game online trên mạng internet (Cao Văn Đ khai nhận là tài khoản của đại lý game đánh bạc qua mạng “W88”) để chị Lã Thị V chuyển tiền vào.

Ngày 05/3/2023, chị V đã 02 lần chuyển tiền vào số tài khoản ngân hàng nói trên với tổng số tiền 37.000.000 đồng cụ thể: chị V chuyển lần thứ nhất số tiền 18.000.000 đồng, lần thứ hai chuyển số tiền 19.000.000 đồng. Sau khi chị V chuyển 02 lần với số tiền 37.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng VIB số 280419822 thì tài khoản game online của Cao Văn Đ nhận lại được số điểm game tương ứng. Đ đã sử dụng số điểm game này để chơi game online và sau đó bán lại điểm game để lấy tiền mặt và tiêu xài cá nhân. Ngày 06/3/2023, Đ tiếp tục tìm người thân của anh Nh trên Facebook để lừa đảo và đã tìm được tài khoản Facebook “T” của chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú tại: Hòa Hải, L, Hậu L1, Thanh Hóa (gọi anh Nh là cậu ruột). Đ sử dụng tài khoản Facebook “N” nhắn tin cho chị Nguyễn Thị T để hỏi mượn số tiền 8.000.000 đồng và hứa “khi đi làm về sẽ trả”. Do tin tưởng nên chị T đã hỏi số tài khoản ngân hàng để chuyển khoản, Đ đã nhắn tin cung cấp tài khoản ngân hàng VPBank số 0357841xxx(Ngô Văn P) cho chị Nguyễn Thị T (số tài khoản ngân hàng này được Cao Văn Đ lấy trên cổng game W88). Sau đó, chị T nhắn tin bảo không mượn đủ số tiền 8.000.000 đồng nên đã chuyển khoản cho Đ số tiền 3.000.000 đồng. Đ đề nghị chị T tiếp tục mượn tiền để chuyển khoản cho mình nhưng sau đó chị đã không chuyển khoản thêm. Số tiền 3.000.000 đồng chiếm đoạt được của chị T, Đ đã mua điểm game W88 để chơi game sau đó thông qua các “đại lý” để đổi điểm game thành tiền mặt và tiêu xài cá nhân hết.

Cáo trạng số 01/CT-VKSTP ngày 09/01/2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị truy tố Cao Văn Đ về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Cao Văn Đ phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Cao Văn Đ từ 18 tháng đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách gấp đôi thời hạn tù; về dân sự: bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại, nay các bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét; về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại IPhone 13 Promax gắn SIM điện thoại số 076337xxxx; về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1 ] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: khi vào các trang mạng xã hội Cao Văn Đ, thấy có nhiều người thiết lập ra trang website có tính năng thu thập thông tin, dữ liệu do người khác nhập vào để lừa đảo, chiếm quyền sử dụng tài khoản Facebook của người khác nên Cao Văn Đ đã nảy sinh ý định tạo ra một trang website có tính năng tương tự như trên để đánh cắp tài khoản Facebook của người khác nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để thực hiện việc này, Đ nhờ bạn mình là Cao Văn H, thiết kế ra tramg website có tên “netdepthanhlich.2023.weebly.com” đồng thời tự mình nghiên cứu, thiết kế ra các trang website có tên “cuocthibinhchontretho.weebly.com” và nhiều trang website khác có tính năng thu thập dữ liệu như trên. Sau khi có được các trang website nói trên, Đ đã gửi địa chỉ trang website này cho người khác và đề nghị họ truy cập vào trang website nói trên để “bình chọn” giúp. Khi có người tin tưởng và truy cập vào website trên để bình chọn thì trang website sẽ yêu cầu nhập tài khoản Facebook của mình để có thể “bình chọn”. Nếu người dùng nhập thông tin tài khoản Facebook của mình vào các ô trống theo hướng dẫn của trang website và nhấn “đăng nhập” thì toàn bộ thông tin, dữ liệu sẽ được gửi về tài khoản tại trang website "weebly.com" do Cao Văn Đ quản lý. Tên đăng nhập tại "weebly.com" có dạng Gmail là “binhyennhe123@gmail.com”. Đ truy cập vào tài khoản của mình trên website "weebly.com", sử dụng dữ liệu thu thập được để truy cập vào tài khoản Facebook của người đó sau đó đăng nhập, chiếm đoạt và nhắn tin, lừa đảo tiền của người thân, bạn bè chủ tài khoản Facebook. Để lưu trữ các dữ liệu có liên quan, đặc biệt là tài khoản Facebook mà mình đã chiếm đoạt được thì Đ đã tạo ra một tài khoản Facebook có tên “P” và lưu dữ liệu dưới dạng gửi tin nhắn cho chính tài khoản Facebook này. Trong các ngày 05/3/2023 và ngày 06/3/2023, Đ đã truy cập Facebook để tìm và chiếm quyền sử dụng tài khoản Facebook “N” của anh Phạm Văn N, sau đó nhắn tin cho chị Lã Thị V và chị Nguyễn Thị T và đưa ra những thông tin gian dối làm cho chị V và chị T tưởng là thật rồi chiếm đoạt tiền của hai người này với số tiền là 40.000.000 đồng (trong đó của chi V là 37.000.000 đồng, của chị T là 3.000.000 đồng). Hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" được quy định xử phạt theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: bị cáo có tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe để tự lao động nuôi sống bản thân nhưng không chịu khó lao động, lại muốn hưởng thụ, xem thường pháp luật, xem thường việc sở hữu tài sản của người khác mà dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng xấu, gây dư luận không tốt đến việc khai thác sử dụng các trang mạng xã hội đã được Nhà nước cho phép. Vì vậy, cần xử lý một cách nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo vì: bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo tỏ thái độ thần khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong để đầu thú và khai nhận về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự đó là “Đầu Thú”. Trong khoảng thời gian từ ngày 05/3/2023 đến ngày 06/3/2023, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại, mỗi lần đều có đủ yếu tố cấu thành tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung vì: bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Bị cáo Cao Văn Đ bị xử phạt tù cho hưởng án treo nên Hội đồng xét xử cần ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 01/2024/LCĐKNCT-TA ngày 12/01/2024, của Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong đối với bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong quá trình điều tra, bị cáo có khai về hành vi đánh bạc trên các trang mạng xã hội. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để điều tra về hành vi đánh bạc của bị cáo nhưng không thu thập được các tài liệu, chứng cứ, chứng minh về hành vi đánh bạc của bị cáo nên chưa đủ cơ sở khởi tố về hành vi đánh bạc của bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: trong quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, phía bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4] Về xử lý vật chứng: trong quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong đã thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại IPhone 13 Promax màu trắng, số IMEI 1: 354347185370092; số IMEI 2: 354347185293484, gắn SIM điện thoại số 076337xxxx. Đây là chiếc điện thoại của bị cáo sử dụng để làm phương tiện phạm tội, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/xxx6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Cao Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Cao Văn Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Cao Văn Đ 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/02/2024).

Giao bị cáo Cao Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Tr, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại IPhone 13 Promax màu trắng, số IMEI 1: 354347185370092; số IMEI 2: 354347185293484, gắn SIM điện thoại số 076337xxxx.

(Vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; đặc điểm của vật chứng này được thể hiện theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 24/01/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Phong).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm xxx6 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Cao Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án trên một cấp để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Các bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

809
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:03/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;