Bản án 03/2021/TCDS-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 03/2021/TCDS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG  

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 63/2020/TLST-TCDS, ngày 10 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST – DS ngày 22/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2021/QĐST- TCDS ngày 08/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng C. Địa chỉ: Số 169, phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T - Chức vụ: Tổng giám đốc; người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tuấn N - Chức vụ:

Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình; ủy quyền lại cho ông Hoàng Đại T, Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Ch huyện Q, tỉnh Quảng Bình tại văn bản ủy quyền số 20/QĐ-NHCS ngày 08 tháng 01 năm 2020. Địa chỉ Phòng giao dịch: Tổ dân phố H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

Bị đơn: Ông Hoàng Văn Đ, địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thị M, địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt. mặt.

- Ông Hoàng T, địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21/9/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn Ngân hàng C - Ông Hoàng Đại T trình bày:

Ông Hoàng Văn Đ được Phòng giao dịch (PGD) Ngân hàng C huyện Q cho vay chương trình học sinh sinh viên với tổng số tiền 37.200.000 đồng theo Khế ước nhận nợ như sau:

- Khế ước nhận nợ số 6000003000095714 số tiền 37.200.000 đồng, giải nhân từ ngày 22/11/2009, thời hạn 83 tháng, lãi suất 6%/năm ( vay cho sinh viên Hoàng Thành), đến hạn trả nợ theo Hợp đồng, Phòng giao dịch đã có thông báo thu hồi nợ đến hạn để thông báo cho hộ vay trả nợ đến hạn. Gia đình ông Hoàng Văn Đ gặp khó khăn chưa trả được nợ, Ngân hàng C huyện Q đã tạo điều kiện cho gia đình ông Hoàng Văn Đ được 04 lần gia hạn nợ đến ngày 14/10/2019. Tuy nhiên, hết thời hạn gia hạn nợ (ngày 14/10/2019) nhưng gia đình ông Hoàng Văn Đ vẫn không chấp hành trả số nợ nói trên.

Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q, Ủy ban nhân dân xã G, Ban giảm nghèo xã G, Hội Cựu chiến binh xã và Tổ TK&VV đã phối hợp nhiều lần động viên, đôn đốc gia đình ông Hoàng Văn Đ trả nợ nhưng ông Hoàng Văn Đ vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Món vay sau khi chuyển nợ quá hạn Ngân hàng C huyện đều có thông báo bằng văn bản về việc chuyển nợ quá hạn gửi đến hộ vay.

Để đảm bảo việc thu hồi nợ vay cho Nhà nước, Ngân hàng C đề nghị Tòa án huyện Quảng Ninh buộc gia đình ông Hoàng Văn Đ phải thanh toán cho PGD Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình tính đến ngày xét xử sơ thẩm số tiền 62.929.416 đồng (Sáu mươi hai triệu, chín trăm hai mươi chín nghìn, bốn trăm mười sáu đồng), trong đó nợ gốc 37.200.000 đồng, nợ lãi là 25.729.416 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn 24.536.382 đồng, nợ lãi quá hạn 1.193.034 đồng) và số tiền lãi phát sinh cho đến ngày gia đình ông Hoàng Văn Đ trả nợ xong cho Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn ông Hoàng Văn Đ trình bày: Năm 2009, vợ chồng tôi có vay Ngân hàng C huyện Quảng Ninh số tiền 37.200.000 đồng (vay theo chính sách sinh viên cho con trai Hoàng T), thời hạn vay 83 tháng, lãi suất 6%/năm. Tôi đã trả một ít lãi cho khế ước cho PGD Ngân hàng C huyện Q nhưng chưa trả gốc vì chưa đến hạn.

Do con tôi Hoàng T đi học về chưa có công ăn việc làm, bản thân vợ chồng tôi hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có điều kiện để trả nợ cho Ngân hàng kịp thời. Hiện nay, Ngân hàng khởi kiện, tôi đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện cho tôi đến tháng 5/2021 sẽ trả cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi của khế ước vay cho con Hoàng T. Nếu hết thời hạn trên, tôi không trả đủ thì Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị M trình bày: Bà thống nhất với lời khai của ông Hoàng Văn Đ. Mặc dù là vay cho con trai Hoàng T để phục vụ cho con học tập, nhưng vợ chồng tôi vay vợ chồng tôi sẽ có trách nhiệm trả cho Ngân hàng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh phát biểu quan điểm:

Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng, do một bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên phát sinh tranh chấp, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh theo quy định tại Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại các Điều 51, 54, 208, 209, 210 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về người tham gia tố tụng: Tòa án xác định đúng người tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc cấp tống đạt các giấy tờ cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định. Các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ và đúng quy định tại các Điều từ 213 đến điều 233 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc vợ chồng ông Hoàng Văn Đ và bà Phạm Thị M thanh toán cho Ngân hàng C huyện Q số tiền nợ còn lại là 62.929.416 đồng (Sáu mươi hai triệu, chín trăm hai mươi chín nghìn, bốn trăm mười sáu đồng), trong đó nợ gốc 37.200.000 đồng, nợ lãi là 25.729.416 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn 24.536.382 đồng, nợ lãi quá hạn 1.193.034 đồng) và số tiền lãi phát sinh cho đến ngày gia đình ông Hoàng Văn Đ trả nợ xong cho PGD Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ngân hàng C khởi kiện bị đơn ông Hoàng Văn Đ yêu cầu thanh toán tiền vay do vi phạm nghĩa vụ trả nợ, bị đơn có nơi cư trú tại địa bàn huyện Quảng Ninh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bị đơn ông Hoàng Văn Đ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị M, ông Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Đ, bà M và ông T.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét theo nội dung Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay đã được PGD Ngân hàng C huyện Q phê duyệt giải ngân theo khế ước số 6000003000097514 ngày 22/11/2009, hộ gia đình ông Hoàng Văn Đ đã vay Ngân hàng số tiền 37.200.000 đồng, thời hạn vay 83 tháng, lãi suất cho vay 6%/năm.

Đến hạn trả nợ, gia đình ông Đ chưa có tiền trả nợ và xin gia hạn đến ngày 14/10/2019 hết hạn trả nợ cuối cùng. Nhiều lần, Ngân hàng đã thông báo nợ quá hạn, vi phạm hợp đồng, đôn đốc, kiểm tra, yêu cầu ông Đ, bà M trả nợ, ông Đ, bà M vẫn không trả. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm hộ gia đình Ông Hoàng Văn Đ còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 62.929.416 đồng (Sáu mươi hai triệu, chín trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm mười sáu đồng), trong đó nợ gốc 37.200.000 đồng, nợ lãi là 25.729.416 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn 24.536.382 đồng, nợ lãi quá hạn 1.193.034 đồng).

Xét Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay đã được giải ngân giữa PGD Ngân hàng C huyện Q với hộ gia đình ông Đ được giao kết hợp pháp nên phát sinh hiệu lực, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Nhưng vì bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay nên việc khởi kiện và yêu cầu bị đơn phải trả nợ cho nguyên đơn là có căn cứ theo quy định tại các điều 463, 466 của Bộ luật dân sự và theo cam kết thỏa thuận tại sổ vay vốn.

Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn: Căn cứ Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay đã được PGD Ngân hàng C huyện Q phê duyệt giải ngân theo khế ước số 6000003000097514 ngày 22/11/2009 mà hai bên đã ký kết, nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận lãi suất của hợp đồng vay 6%/năm. Thỏa thuận lãi suất này không vượt quá và đúng quy định của pháp luật tại thời điểm ký kết. Hội đồng xét xử thấy rằng, đến kỳ hạn trả nợ, gia đình ông Đ không trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn tại hợp đồng đã ký kết giữa các bên. Sau kỳ hạn trả nợ cuối cùng, hộ gia đình ông Đ không thanh toán nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và tính lãi suất theo mức lãi suất nợ quá hạn là phù hợp với quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự và Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng. Như vậy, yêu cầu của Nguyên đơn về tiền lãi là có căn cứ nên cần được xem xét chấp nhận, buộc vợ chồng ông Đ, bà M phải trả cho Ngân hàng số tiền lãi là 25.729.416 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn 24.536.382 đồng, nợ lãi quá hạn 1.193.034 đồng).

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị định 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc ông Đ và bà M phải nộp 3.146.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, khoản 1 Điều 147, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự; các điều 91, 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị Quyết 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Chính sách xã hội. Buộc vợ chồng ông Hoàng Văn Đ và bà Phạm Thị M có trách nhiệm trả cho Ngân hàng C số tiền 62.929.416 đồng (Sáu mươi hai triệu, chín trăm hai mươi chín nghìn, bốn trăm mười sáu đồng), trong đó nợ gốc 37.200.000 đồng, nợ lãi là 25.729.416 đồng (trong đó nợ lãi trong hạn 24.536.382 đồng, nợ lãi quá hạn 1.193.034 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi th anh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong các hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí sơ thẩm: Buộc vợ chồng ông Hoàng Văn Đ và bà Phạm Thị M phải nộp 3.146.000 đ (Ba triệu, một trăm bốn mươi sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/TCDS-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:03/2021/TCDS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;