Bản án 03/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/LTST-HS, ngày 31 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1.Phm Đăng Kh, sinh ngày 05/6/1993; tại tỉnh Đắk Lắk NĐKHKTT: Tổ dân phố C, thị trấn Ea T, huyện CJ, tỉnh Đắk Nông.; trú tại: Chỗ ở: Tổ dân phố C, thị trấn Ea T, huyện CJ, tỉnh Đắk Nông.; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; Con ông Phạm Quốc Th (đã chết) và bà Lê Thị Hồng T, sinh năm 1963; có vợ Nguyễn Thị S, sinh năm 1996, có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020 đến ngày 25/7/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Nô – Có mặt.

2.Ngô Thành Đ, sinh ngày 08/3/2001 tại Đắk Nông. Trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn Ea T, huyện CJ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa 07/12; dân tộc: Thái, tôn giáo: Không; con ông Ngô Văn C, sinh năm 1971 và con bà Trần Thị L, sinh năm 1977; có vợ Lê Thị Ngọc B sinh năm 2001 và 01 người con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020 đến ngày 25/7/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Nô – Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Đăng Kh: Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đăk Nông gồm các ông bà;

- Ông Hoàng Ngọc Tuấn – có mặt - Bà Cao Thị Thúy Hường – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

-Ông Ngô Văn C; trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn Ea T, huyện CJ, tỉnh Đăk Nông – có mặt.

- Anh Nguyễn Tiến D; trú tại: Thôn Đức L, xã Đăk S, huyện Krông N – có mặt.

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Trọng Ng; trú tại: Thôn Quảng H, xã Đăk S, huyện Krông N – vắng mặt.

- Anh Lê Tiến H; trú tại: Tổ dân phố N, thị trấn Đăk M, huyện Krông N – vắng mặt.

- Anh Nguyễn Thanh T; trú tại: Thôn K, xã Tâm Th, huyện CJ, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.

- Anh Trương Quang H; trú tại: Thôn H, xã Tâm Th, huyện CJ, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.

- Anh Trương Hoàng Th; trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn Ea T, huyện CJ– vắng mặt.

- Anh Nguyễn Hoàng Ngh; trú tại: Bon U, thị trấn Ea T, huyện CJ– có mặt.

- Anh Lê Phước L; trú tại: Tổ dân phố M, khu phố B, thị trấn Ea T, huyện CJ – vắng mặt.

- Anh Nguyễn Hoàng Ph; trú tại: Tổ dân phố M, khu phố B, thị trấn Ea T, huyện CJ– vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn L; trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn Ea T, huyện CJ – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 19 giờ 30 phút ngày 22/7/2020 tại đoạn đường Quốc lộ 28 thuộc thôn Nam Thạnh, xã Nam Đà, huyện Krông Nô, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Krông Nô bắt quả tang Ngô Thành Đ đang trên đường đi giao ma túy (Ketamin) cho người mua tại quán Kraoke Nhật Hoàng thuộc Tổ 3, thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, thu giữ trên người Đ 02 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng, Đ khai là ma túy (Ketamin) đi giao theo sự chỉ đạo của Phạm Đặng Kh. Cơ quan CSĐT điều tra Công an huyện Krông Nô đã phối hợp với Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đắk Nông, Cơ quan CSĐT công an huyện Cư Jút tiến hành bắt quả tang Phạm Đăng Kh khi Kh đang giao ma túy cho đối tượng tên Nguyễn Trọng Ng và nhóm bạn gồm Nguyễn Tiến D, Lê Tiến H, Vi Thị Th đang hát Kraokê tại quán Kraokê Đại Thành (còn gọi là Anh Thư) do bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1976 làm chủ, thuộc Tổ S, thị trấn Ea T, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông thu giữ trong túi quần Kh 02 gói nilon có chứa chất rắn màu trắng. Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà Phạm Đăng Kh thu giữ: 18 viên nén màu xanh lá, 02 viên nén màu hồng, 01viên nén màu tím và 20 túi nilon dạng túi zipper chứa chất rắn màu trắng. Khám xét nhà Ngô Thành Đ thu giữ 01gói nilon dạng túi zipper bên trong có chứa chất rắn màu trắng.

Ngày 23/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đắk Nông đã ra Quyết định số 569, Trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông giám định chất ma túy đối với số ma túy thu giữ được. Tại bản kết giám định số 109/KLMT-PC09 ngày 28/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông, kết luận:

- Chất bột màu trắng đựng trong 01 gói nilon trong suốt, ký hiệu M2 thu giữ tại nhà Ngô Thành Đ là ma túy loại Ketamine có khối lượng 0,1661gam.

- Chất bột màu trắng, chất rắn màu xanh, viên nén màu xanh, viên nén màu tím và tinh thể màu trắng thu giữ của Ngô Thành Đ và Phạm Đặng Kh được niêm phong trong bì thư, ký hiệu là M1, N1, N2, N3 và đựng trong hộp nhựa gửi đến giám định là ma túy loại Ketamine có tổng khối lượng 16,5197 gam.

- 02 viên nén màu hồng đựng trong 01 hộp nhựa được niêm phong gửi giám định là ma túy loại MDMA khối lượng 0,7139 gam.

Ngày 24/7/2020 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Krông Nô đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Đăng Kh và Ngô Thành Đ.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Đăng Kh và Ngô Thành Đ đã khai nhận: Kh bắt đầu mua bán ma túy là Ketamin và thuốc Lắc (ma túy tổng hợp thường gọi là Kẹo) từ tháng 12 năm 2019. Về nguồn cung cấp ma túy, Kh mua trực tiếp của đối tượng Nguyễn Thị Thu H ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và mua của đối tượng Vũ Thập Thiên Đại Nh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi có được ma túy, Kh phân chia thành nhiều gói nhỏ được đựng trong mỗi túi nilon dạng túi zipper rồi mang bán cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng. Cụ thể:

1. Khoảng cuối tháng 12 năm 2019, Kh biết Nguyễn Thị Thu H (sinh năm 1997, hộ khẩu thường trú tại thị trấn Ea Tlinh, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông) gần nhà Kh, nhưng lại sinh sống ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk có bán ma túy dạng Ketamin, nên Kh đã liên lạc mua ma túy để chia nhỏ bán kiếm lời. Kh mua của H khoảng 04 lần mỗi lần gồm 01 hộp Ke (Ketamin dạng tin thể) và 50 viên Kẹo (ma túy tổng hợp Ketamin còn gọi là thuốc lắc) với giá 27.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy về, Kh một mình vào trong căn nhà kho bằng gỗ của gia đình, chia số ma túy dạng tinh thể ra thành 25 gói nhỏ được đựng trong túi nilon dạng túi zipper (gọi là Chấm). Khi đối tượng có nhu cầu mua ma túy, thì Kh bán 01 “Chấm” với giá 1.200.000 đồng, 01 viên “Kẹo” giá 400.000 đồng. Sau khi trừ chi phí, mỗi lần mua ma túy về chia nhỏ ra bán, Kh thu lợi 20.000.000 đồng. Tổng số tiền Kh thu lợi từ việc mua ma túy của Nguyễn Thị Thu H bán kiếm lời là 80.000.000 đồng.

2. Trong quá trình mua bán ma túy, qua đối tượng nghiện, Kh biết được người có tên là Vũ Thập Thiên Đại Nh ở Thành phố Hồ Chí Minh có cung cấp Ketamin, Kh đã liên hệ với Nh bằng điện thoại qua ứng dụng Telegram. Thấy ma túy mà Nh bán rẻ hơn Nguyễn Thị Thu H (23.000.000 đồng mua được 01 hộp Ke và 50 viên Kẹo), nên từ ngày 28 tháng 4 năm 2020 đến ngày 16 tháng 7 năm 2020, Kh đã đặt mua ma túy của Nh 06 lần và chuyển cho Nh tổng số tiền 163.500.000 đồng qua dịch vụ BankPlus, kênh giao dịch Viettel. Sau mỗi lần nhận được tiền, Nh gửi ma túy về cho Kh qua dịch vụ gửi hàng của Nhà xe Hoàng Long rồi Kh nhận hàng ở ngã ba Cư Jút đoạn đi vào hướng huyện Krông Nô. Từ khi mua ma túy của Nhất, Kh rủ Ngô Thành Đ là đối tượng sử dụng ma túy cùng tham gia bán ma túy với mình bằng việc nhận ma túy từ nhà xe Hoàng Long đưa về cho Kh và đi giao ma túy trực tiếp cho đối tượng mua rồi nhận tiền về cho Kh, cụ thể: Khi có người muốn mua ma túy sẽ liên lạc với Kh qua số điện thoại 0793658442, sau khi thỏa thuận số lượng và giá cả, địa điểm giao nhận, thì Kh điện thoại cho Đ đến nhà Kh lấy ma túy và cầm theo chiếc điện thoại hiệu Nokia màu xanh bạc lắp số điện thoại 0793658442 và số điện thoại của người mua lưu trong nhật ký cuộc gọi để giao ma túy và nhận tiền. Mỗi lượt giao ma túy cho người mua, Đ được Kh trả công 200.000 đồng. Nếu giao ma túy ở địa phận huyện Krông Nô, Kh yêu cầu người mua trả thêm tiền xe là 300.000 đồng. Ngoài ra Kh cũng cho Đ ma túy để Đ sử dụng. Qua 06 lần mua ma túy của Nh, Kh đã chia và bán hết 05 lần thu lợi tổng số tiền 74.000.000 đồng, trong đó chia cho Đ số tiền 40.000.000 đồng.

Đối với lần mua ma túy của Vũ Thập Thiên Đại Nh vào ngày 16 tháng 7 năm 2020 với giá 23.000.000 đồng (lần mua thứ 6). Kh phân chia thành 25 gói nhỏ (Chấm), ngày 22/7/2020 Đ đã đi giao cho người có tên là Kít tại quán Kraoke Nhật Hoàng thuộc Tổ 3, thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô 02 Chấm và 01 viên thuốc Lắc lấy số tiền 2.700.000 đồng mang về giao lại cho Kh. Giao cho Ng tại quán kraokê Đại Thành thuộc Tổ 6, thị trấn Ea Tlinh, huyện Cư Jút 01 chấm và 02 viên thuốc lắc lấy số tiến 2.000.000 đồng mang về cho Kh. Khi Đ tiếp tục đi giao 02 chấm cho đối tượng tên Đ Sói ở huyện Krông Nô thì bị bắt quả tang. Số ma túy còn lại cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp và thu giữ tại nhà kho của Phạm Đặng Kh.

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã xác định được trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2019 đến ngày bị bắt Phạm Đặng Kh và Ngô Thành Đ đã bán cho các đối tượng gồm: Nguyễn Thanh T; trú tại thôn K – xã Tâm Th, huyện Cư Jút); Trương Quang H, trú tại thôn H, xã Tâm Th, huyện Cư Jút; Nguyễn Văn L, trú tại Tổ C, thị trấn Ea T, huyện CJ, Nguyễn Hoàng Ph, trú tại Tổ M, khu phố B, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Lê Phước L, trú tại Tổ M, khu phố B, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Nguyễn Hoàng Ngh, trú tại Bon U, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Bùi Hoàng Th, trú tại: số nhà 260 Nguyễn Tất Th, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Nguyễn Trọng Ng, trú tại xã Đắk Sôr, huyện Krông Nô.

Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKS, ngày 31/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố các bị cáo Phạm Đăng Kh, Ngô Thành Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Phạm Đăng Kh, Ngô Thành Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Đăng Kh từ 09 năm đến 10 năm tù, bị cáo Ngô Thành Đ từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 22/7/2020.

Đề nghị xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 23cm; 01 túi nilon màu vàng bên trong có: 01 túi nilon màu trắng đựng 204 túi ZIPPER kích thước (3x4)cm, 01túi nilon màu trắng, bên trong có 83 túi ZIPPER kích thước (4x6)cm, 01 túi nilon màu đen, bên trong có 566 túi ZIPPER kích thước (2,5 x 3)cm; 05 bì thư có kích thước (12 x 22)cm, có chứa ma túy ký hiệu lần lượt M1, M2, N1, N2, N3 được niêm phong và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định; 01 hộp nhựa màu trắng có in dòng chữ YAZAWA, xung quanh hộp nhựa được dán giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định.

- Đề nghị tịch thu ngân sách Nhà nước: Số tiền 3.420.000 đồng (Ba triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng); 01 điện thoại Iphone X màu xám; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, màn hình cũ bị nứt; 01 điện thoại NOKIA 1202, màu xanh bạc, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 47F8-3979 là tài sản các bị can có được từ việc bán ma túy và phương tiện sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

- Đề nghị trả lại cho bị cáo Phạm Đặng Kh 01 ví da màu đen hiệu TISUDSI, không liên quan đến vụ án.

- Đề nghị trả lại cho Ngô Văn C 01 xe mô tô hiệu Yamaha SIRIUS, BKS 47B1- 02150, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BKS 47B1-02150 mang tên Mã Quang Th không liên quan đến vụ án.

- Đề nghị trả lại cho Ngô Thành Đ 01 giấy phép lái xe số: 670206002009 mang tên Ngô Thành Đ, 01 thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Ngô Thành Đ. không liên quan đến vụ án.

- Đề nghị trả lại cho Nguyễn Tiến Dũng thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Tiến D.

Đối với số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Phạm Đặng Kh là 114.000.000 đồng, Ngô Thành Đ là 40.000.000 đồng đề nghị cần truy thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Phạm Đăng Kh tham gia phiên tòa, trình bày lời bào chữa cho bị cáo Kh; Đề nghị Hội đồng xét xử áp điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Kh mức hình phạt thấp nhất.

Các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, song tại cơ quan điều tra đã có lời khai, xác định sự việc là đúng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như bản Cáo trạng đã nêu phù hợp với; Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập trong vụ án. Do đó đủ cơ sở kết luận vì mục đích tư lợi cá nhân, muốn kiếm lời nhanh chóng, nên trong khoảng thời gian từ đầu tháng 12 năm 2019 đến ngày 22 tháng 7 năm 2020, Phạm Đặng Kh đã 04 lần mua ma túy của đối tượng Nguyễn Thị Thu H, trú tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và 06 lần mua ma túy của Vũ Thập Thiên Đại Nh, trú tại thành phố Hồ Chí Minh là ma túy loại Ketamine dạng tinh thể và viên nén với tổng số tiền 271.500.000 đồng. Sau khi mua ma túy, Kh chia nhỏ ma túy dạng tinh thể thành nhiều túi nilon dạng zipper rồi bán cho các đối tượng trên địa bàn huyện Cư Jút và huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Từ tháng 4 năm 2020 đến ngày 22/7/2020, Phạm Đăng Kh rủ Ngô Thành Đ cùng tham gia giao ma túy cho các đối tượng mua, Kh trả công cho Đ 200.000 đồng/lần bán ma túy. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã xác định được trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2019 đến ngày bị bắt Phạm Đặng Kh và Ngô Thành Đ đã bán cho các đối tượng gồm: Nguyễn Thanh T; trú tại thôn K – xã Tâm Th, huyện Cư Jút); Trương Quang H, trú tại thôn H, xã Tâm Th, huyện Cư Jút; Nguyễn Văn L, trú tại Tổ C, thị trấn Ea T, huyện Cư Jút, Nguyễn Hoàng Ph, trú tại Tổ M, khu phố B, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Lê Phước L, trú tại Tổ M, khu phố B, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Nguyễn Hoàng Ngh, trú tại Bon U, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Bùi Hoàng Th, trú tại: số nhà 260 Nguyễn Tất Th, thị trấn. Ea T, huyện Cư Jút; Nguyễn Trọng Ng, trú tại xã Đắk Sôr, huyện Krông Nô. Qua việc bán ma túy Phạm Đăng Kh đã thu lợi số tiền 114.000.000 đồng, Ngô Thành Đ thu lợi số tiền 40.000.000 đồng. Như vậy, với hành vi mà bị cáo đã thực hiện mua, bán trái phép chất ma túy nhiều lần, các bị cáo đã bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Điều 251Bộ luật hình sự quy định vềTội mua bán trái phép chất ma túy năm.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 b) Phạm tội 02 lần trở lên;

ra:

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây [3.1]. Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất Ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, gây tâm lý lo lắng, hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và hoàn toàn nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy (Ketamin) là vi phạm pháp luật và những tác hại của ma túy gây ra. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Trong vụ án này có nhiều bị cáo tham gia, tính chất, mức độ và vai trò của các bị cáo khác nhau và các bị cáo tham gia đều là những người thực hành nên cần phân hoá để quyết định hình phạt cho tương xứng, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Đối với bị cáo Phạm Đăng Kh là người chủ mưu, cầm đầu là người trực tiếp giao dịch mua ma túy của các đối tượng, chuyển tiền nhận ma túy về chia nhỏ để bán cho các con nghiệm nhằm mục đích kiếm lời, số tiền thu lợi bất chính lớn, nên khi quyết định hình phạt sẽ xử mức án cao hơn bị cáo Đ.

Đối với bị cáo Ngô Thành Đ là đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kh trong việc bán ma túy, sau khi bị bắt quả tang đã tự khai người chủ mưu là Phạm Đăng Kh bị cáo có vai trò đồng phạm giúp sức cho Kh trong việc đi nhận hàng ma túy và đi giao hàng ma túy khi nhận lệnh từ Kh và được Kh trả công 200.000 đồng/lần. Như vậy hành vi của bị cáo vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý với tình tiết phạm tội nhiều lần. Vì vậy, HĐXX xét thấy, cần xử bị cáo Đ một mức án đủ nghiêm mới có tính răn đe và phòng ngừa chung nhưng mức án bị cáo thấp hơn bị cáo Kh.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, đồng thời đã tự thú các hành vi phạm tội trước đó của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, ngoài ra các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo Kh có vợ đã ly thân để lại bị cáo đang phải nuôi con nhỏ sống chung với mẹ già, bị cáo Đ con nhỏ và là lao động chính trong gia đình nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Đăng Kh từ 09 năm đến 10 năm tù. Xử phạt bị cáo Ngô Thành Đ từ 08 năm đến 09 năm tù. HĐXX xét thấy mức đề nghị mà vị đại diện Viện kiểm sát đề ra là phù hợp nên cần chấp nhận.

[5]. Xét lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo Kh có một số đề nghị là phù hợp cần chấp nhận, đối với đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo không phù hợp, lý do bị cáo Kh bị bắt sau khi bắt bị cáo Đ, rồi bị cáo Đ khai ra bị cáo Kh là người cầm đầu chứ không phải giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm, nên không chấp nhận.

[6].Từ những nhận định nêu trên xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của của bị cáo, HĐXX thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự thì các bị cáo có thể bị phạt bổ sung với số tiền 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tuy nhiên HĐXX xét hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các bị cáo là lao động chính, con còn nhỏ, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên HĐXX xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[8]. Liên quan trong vụ án có các đối tượng Nguyễn Thanh T, Trương Quang H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Hoàng Ph, Nguyễn Hoàng Ngh, Lê Phước L, Bùi Hoàng Th mua ma túy của Kh, Đ, quá trình điều tra xác định được các đối tượng trên mua ma túy về để sử dụng nên không có căn cứ xử lí hình sự, Cơ quan Công an huyện Krông Nô đã xem xét xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên theo khoản 1, điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với hành vi sử dụng trái phép ma túy tại quán Kraokê Đại Thành tại Tổ 6, thị trấn Ea Tlinh, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông bị bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định việc các đối tượng sử dụng ma túy là do Ngô Thành Đ mang đến khi Ng gọi cho Đ đến hát Kraokê. Các đối tượng Nguyễn Trọng Ng, Nguyễn Tiến D, Vi Thị Th, thấy ma túy để trên bàn do Đ mang đến, nên tự lấy sử dụng. Do vậy, không có căn cứ xử lý về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Cơ quan CSĐT đã chuyển Công an huyện Krông Nô ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp.

Đối với bà Nguyễn Thị N chủ quán Kraokê Thành Đ, không biết việc các đối tượng sử dụng ma túy trong phòng hát nên không có căn cứ xử lý hình sự.

Đối với đối tượng Ngô Nguyễn Đắk Th (SN 2002, trú tại Bon U, thị trấn Ea T, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông) là quản lý quán Kraokê Thành Đạt tại thời điểm các đối tượng sử dụng ma túy trong phòng hát. Hiện đã bỏ đi khỏi địa phương không làm việc được, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với đối tượng tên K và Đ Sói đã mua ma túy của Kh, Đ và giao nhận tại quán Kraokê Nhật Hoàng tại Tổ 3, thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô. Qua xác minh xác định là đối tượng Ngô Đức Q (SN 1993, trú tại xã Đắk Drô, huyện Krông Nô_tức Kít) và Doãn Thanh Đ (SN 1995, trú tại xã Nam Đà, huyện Krông Nô_tức Đ Sói). Hiện các đối tượng đã bỏ đi khỏi địa phương không khai báo nên chưa làm việc được. Cơ quan điều tra ra thông báo truy tìm để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với số ma túy thu giữ tại nhà Ngô Thành Đ, Đ khai để sử dụng. Kết quả giám định xác định là Ketamine có khối lượng 0,1661gam, chưa đủ định lượng để xử lý hình sự. Do vậy Công an huyện Krông Nô ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với Đ số tiền 1.000.000 đồng là phù hợp.

[9]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 23cm; 01 túi nilon màu vàng bên trong có: 01 túi nilon màu trắng đựng 204 túi ZIPPER kích thước (3x4)cm, 01túi nilon màu trắng, bên trong có 83 túi ZIPPER kích thước (4x6)cm, 01 túi nilon màu đen, bên trong có 566 túi ZIPPER kích thước (2,5 x 3)cm; 05 bì thư có kích thước (12 x 22)cm, có chứa ma túy ký hiệu lần lượt M1, M2, N1, N2, N3 được niêm phong và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định có tổng khối lượng là; 01 hộp nhựa màu trắng có in dòng chữ YAZAWA, xung quanh hộp nhựa được dán giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: Số tiền 3.420.000 đồng (Ba triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng); 01 điện thoại Iphone X màu xám; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, màn hình cũ bị nứt; 01 điện thoại NOKIA 1202, màu xanh bạc, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 47F8-3979 là tài sản các bị cáo có được từ việc bán ma túy và phương tiện sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Đặng Kh 01 ví da màu đen hiệu TISUDSI, không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho ông Ngô Văn C 01 xe mô tô hiệu Yamaha SIRIUS, BKS 47B1- 02150, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BKS 47B1-02150 mang tên Mã Quang Th không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Thành Đ 01 giấy phép lái xe số: 670206002009 mang tên Ngô Thành Đ, 01 thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Ngô Thành Đ. không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho anh Nguyễn Tiến Dũng thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Tiến Dũng.

Đối với số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo Phạm Đặng Kh là 114.000.000 đồng, Ngô Thành Đ là 40.000.000 đồng cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

[10]. Về án phí: Các bị cáo Phạm Đăng Kh, Ngô Thành Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Đăng Kh, Ngô Thành Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Đăng Kh 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 22/7/2020.

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Thành Đ 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 22/7/2020.

2 Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 23cm; 01 túi nilon màu vàng bên trong có: 01 túi nilon màu trắng đựng 204 túi ZIPPER kích thước (3x4)cm, 01túi nilon màu trắng, bên trong có 83 túi ZIPPER kích thước (4x6)cm, 01 túi nilon màu đen, bên trong có 566 túi ZIPPER kích thước (2,5 x 3)cm; 05 bì thư có kích thước (12 x 22)cm, có chứa ma túy ký hiệu lần lượt M1, M2, N1, N2, N3 được niêm phong và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định; 01 hộp nhựa màu trắng có in dòng chữ YAZAWA, xung quanh hộp nhựa được dán giấy niêm phong có chữ ký của giám định viên và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 3.420.000 đồng (Ba triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng); 01 điện thoại Iphone X màu xám; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, màn hình cũ bị nứt; 01 điện thoại NOKIA 1202, màu xanh bạc, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 47F8-3979 là tài sản các bị cáo có được từ việc bán ma túy và phương tiện sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Đặng Kh 01 ví da màu đen hiệu TISUDSI, không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho ông Ngô Văn C 01 xe mô tô hiệu Yamaha SIRIUS, BKS 47B1- 02150, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BKS 47B1-02150 mang tên Mã Quang Th không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Thành Đ 01 giấy phép lái xe số: 670206002009 mang tên Ngô Thành Đ, 01 thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Ngô Thành Đ. không liên quan đến vụ án.

- Trả lại cho anh Nguyễn Tiến D thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Tiến Dũng.

Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 114.000.000 đồng bị cáo Phạm Đặng Kh có được do thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 40.000.000 đồng bị cáo Ngô Thành Đ có được do thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy (Đặc điểm vật chứng như biên bản bàn giao ngày 05/01/2021 giữa cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Phạm Đăng Kh, Ngô Thành Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 của luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;