Bản án 03/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 55/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo: Tẩn Mý D; sinh năm: 1970; nơi sinh: huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: bản HH, xã PXL, huyện SH, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Dao; giới tính: nữ; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Tẩn Cuổi Y và bà Tẩn Lưu Cn; có chồng là Chẻo Thin P (đã ly hôn) và 04 con (con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1997); tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Bị cáo đã hai lần bị Tòa án tuyên bố phạm tội. Lần thứ nhất: Năm 2000 bị cáo xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích; Lần thứ hai: vào năm 2007 bị cáo bị xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo đã được xóa án tích. Bị bắt hồi 14 giờ 15 phút ngày 05 tháng 8 năm 2020; bị tạm giữ từ 17 giờ 00 phút ngày 05 tháng 8 năm 2020 đến 17 giờ 00 phút ngày 14 tháng 8 năm 2020; bị cáo được tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Tẩn A D1; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 03 tháng 8 năm 2020 bị cáo Tẩn Mý D một mình đi bộ từ nhà ở bản HH, xã PXL, huyện SH, tỉnh Lai Châu đến nhà Tẩn A D1 (sinh năm: 1968; trú tại: bản MSP, xã XDP, huyện SH) để chơi. Trên đường đi đến khu vực đập nước thuộc bản Mao Sao Phìn, D gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, nhìn giống người nghiện ma túy, khoảng 40 tuổi, không biết họ, tên, nơi cư trú. D hỏi và mua được của người phụ nữ này 01 cục Heroine với giá 50.000 đồng để mang về sử dụng. Sau khi bán Heroine cho D, người phụ nữ đi đâu D không biết, còn D cất giấu cục Heroine vào trong túi áo đang mặc trên người không cho ai biết, tiếp tục đi đến nhà D1 chơi rồi đi về nhà. Chiều ngày 05 tháng 8 năm 2020, D lại đi đến nhà D1 chơi và ăn cơm tại nhà D1. Sau khi ăn cơm, khoảng 14 giờ cùng ngày D lên cơn nghiện ma túy nên lấy cục Heroine đã mua được ngày 03 tháng 8 năm 2020 ra để sử dụng, khi D đang cầm cục Heroine trên tay phải, chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đang làm nhiệm vụ tại bản Mao Sao Phìn phát hiện, bắt quả tang.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 08 giờ 30 phút ngày 06 tháng 8 năm 2020 và bản Kết luận giám định tư pháp số:

45, ngày 06 tháng 8 năm 2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc là ông Trần Văn Minh thể hiện: 01 cục chất bột màu trắng thu giữ của Tẩn Mý D (sau khi đã loại bỏ bao bì) có khối lượng là 0,2 gam. Lấy toàn bộ 0,2 gam chất bột màu trắng làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số: 427/GĐ-KTHS ngày 11 tháng 8 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (không hoàn lại đối tượng giám định).

Tại Bản cáo trạng số: 54/CT-VKSSH ngày 20 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Tẩn Mý D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù; xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; xử lý vật chứng: đối với 0,2 gam Heroine thu giữ của bị cáo đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định, sau khi giám định, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật giám định, nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại nhà ở của Tẩn A D1; sinh năm: 1968; tại bản MSP, xã XDP, huyện SH, tỉnh Lai Châu, bị cáo Tẩn Mý D đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam Heroine, với mục đích để bản thân sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhân thân của bị cáo, với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bị cáo đã hai lần bị Tòa án tuyên phạm tội về ma túy và nhận hình phạt nghiêm khắc, bị cáo đã được giáo dục, cải tạo bằng hình phạt tù, bản thân bị cáo đã nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng khi đã chấp hành xong hình phạt và được trở về với đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn không nhận thức được sai lầm của mình, không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để trở thành người công dân có ích cho xã hội, bị cáo đã tái nghiện chất ma túy nên đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để có ma túy để sử dụng. Thấy rằng, cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo bị cáo không được đi học, không biết chữ, nhận thức có phần hạn chế. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,2 gam Heroine đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định chất ma túy. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về nguồn gốc Heroine và trách nhiệm của người có liên quan:

Theo lời khai của bị cáo thì 0,2 gam Heroine bị cáo tàng trữ là do mua của một người phụ nữ người dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi, bị cáo không quen biết tại khu vực đập nước thuộc bản Mao Sao Phìn, xã Sà Dề Phìn. Đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu không xác định được người phụ nữ này là ai, nên không đề cập xử lý trong vụ án.

Trong các ngày 03/8/2020 và ngày 05/8/2020 bị cáo D có đến nhà Tẩn A D1 chơi và ăn cơm tại nhà D1, nhưng D1 không biết việc D mua và tàng trữ trái phép chất ma túy, nên D1 không phải đồng phạm với bị cáo D trong về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự,

1. Tuyên bố: bị cáo Tẩn Mý D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Tẩn Mý D 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, được trừ 09 ngày bị cáo bị tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 01 (một) năm 08 (tám) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3. Án phí sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26 tháng 01 năm 2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 03/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;