Bản án 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ L số: 26/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 09/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2020/HSST-QĐ ngày 24/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Duy Đ và bà Lâm Thị N; Vợ Hoàng Thị X; Con: chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 04/5/2018, Công an huyện T, tỉnh Hà Nam xử phạt 1.500.000đồng về hành vi Cản trở người thi hành công vụ. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/8/2020 đến ngày 22/8/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; Có mặt.

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1991.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Q, sinh năm 1962.

Đều trú tại: xóm 9, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam (bà Q có đơn xin vắng mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Hoàng Thị X, sinh năm 1987; Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; Có mặt.

- Bà Lâm Thị N, sinh năm 1960; Trú tại: Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 3 năm 2019, thông qua mạng Facebook, chị Nguyễn Thị L trú tại tổ dân phố Đ, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam quen biết và kết bạn với Nguyễn Văn H ở Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình đang làm công trình xây dựng ở Hà Nội có tài khoản Facebook “Minh Huy” và “Minh Minh” đăng ký theo các số điện thoại 0373028368 và 0365279909 để liên lạc, nhắn tin với chị L.

Đến tháng 4 năm 2019, chị L và H gặp nhau tại một quán nước ở thành phố Hà Nội, chị L nói chuyện với H về việc đang muốn thuê luật sư trợ giúp việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. H nhận lời tìm thuê luật sư cho chị L và hẹn nếu thuê được sẽ báo cho chị L biết. Khi về phòng trọ ở đường T, phường C, quận B, thành phố Hà Nội, do cần tiền để tiêu xài cá nhân, H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị L thông qua việc thuê luật sư. Qua facebook, H đã nhắn tin cho chị L và nói dối là đã thuê được luật sư, chị L hỏi chi phí thế nào? thì H nói khi nào luật sư yêu cầu sẽ báo lại cho chị L biết nhưng không nói rõ là bao nhiêu, đồng thời nhắn tin cung cấp số tài khoản của mình cho chị L.

Để tạo niềm tin, H đã nhiều lần nhắn tin qua facebook cho chị L, đưa ra các L do như đã tìm, thuê được Luật sư; chuyển tiền để H đặt cọc cho Luật sư; tiền bồi dưỡng, biếu Luật sư để Luật sư nhận lời giải quyết; tiền ăn uống, đi lại cho Luật sư và chi phí ra tòa để thuận lợi cho việc xét xử vụ việc phân chia tài sản. Do tin tưởng H, trong khoảng thời gian từ ngày 23/7/2019 đến ngày 14/8/2019, chị Nguyễn Thị L và bà Đinh Thị Q là mẹ đẻ chị L, ở xóm 9, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam đã 04 lần chuyển tiền vào tài khoản số 105000903959 mang tên Nguyễn Văn H mở tại ngân hàng Vietinbank, chi nhánh Thanh Xuân, Hà Nội với tổng số tiền là 56.000.000VNĐ, cụ thể:

Ngày 23/7/2019 chị Nguyễn Thị L đến điểm giao dịch Viettel chi nhánh Biên Hòa, thành phố P chuyển vào tài khoản của Nguyễn Văn H số tiền 15.000.000 đồng. Ngày 04/8/2019 chị Nguyễn Thị L đến điểm giao dịch Viettel tại thị trấn V, huyện L chuyển vào tài khoản của Nguyễn Văn H số tiền 15.000.000 đồng. Ngày 08/8/2019 chị L đến điểm giao dịch Viettel tại thị trấn V, huyện L chuyển vào tài khoản của Nguyễn Văn H số tiền 11.000.000VNĐ đồng. Ngày 14/8/2019, theo yêu cầu của H phải chi phí để ra tòa được thuận lợi cho việc xét xử vụ việc phân chia tài sản. Chị L đã nhờ mẹ đẻ là bà Đinh Thị Q đến điểm giao dịch Viettel tại thị trấn V, huyện L chuyển vào tài khoản của Nguyễn Văn H số tiền 15.000.000 đồng.

Sau khi nhận được tiền, H không thuê luật sư như đã hứa hẹn với chị Nguyễn Thị L và sử dụng toàn bộ số tiền chị L và bà Q đã chuyển vào mục đích cá nhân. Chuẩn bị đến ngày Tòa án thành phố P giải quyết vụ việc có liên quan đến việc phân chia tài sản nhưng không thấy có luật sư tham gia để trợ giúp, chị L đã nhiều lần gọi điện, nhắn tin vào các số điện thoại 0373028368, 0365279909 và tài khoản Facebook “Minh Huy” và “Minh Minh” của H để hỏi về việc thuê luật sư nhưng H không nghe, không nhắn tin trả lời. Biết chị L đã phát hiện được việc không thuê luật sư như đã hứa hẹn nên H đã đưa sim điện thoại di động có số 0373028368 cho chị Hoàng Thị X là vợ của H ở Thôn Đ, xã Đ, huyện H sử dụng, còn số điện thoại 0365279909 H không sử dụng và khóa tài khoản Facebook dùng để nhắn tin, liên lạc với chị L. Ngày 25/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Hà Nam đã mở phiên tòa xét xử việc tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng chị L trong thời kỳ hôn nhân nhưng không có luật sư tham gia.

Sau nhiều lần liên lạc và tìm H không được, ngày 18/6/2020 chị L làm đơn tố cáo về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Văn H gửi Cơ quan CSĐT Công an thành phố P để điều tra, xử lý. Ngày 19/8/2020, Nguyễn Văn H đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố P khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên và giao nộp 01 thẻ ATM VietinBank số 9704151527145636, số tài khoản 105000903959 mang tên Nguyễn Văn H ; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A9-2018 bên trong lắp 02 thẻ sim có số thuê bao 0818030999 và 0977825359, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 17B3 - 295.51; ngày 20/8/2020 chị Hoàng Thị X giao nộp 01 sim điện thoại di động có số thuê bao 0373028368. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ một số giấy tờ các phiếu chuyển tiền, giấy giao nhận tiền…được lưu theo hồ sơ vụ án.

Quá trình điều tra, chị L còn trình bày, tháng 4/2019 chị L có nhờ Nguyễn Văn H mang đi sửa hộ chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP bị hỏng màm hình, tháng 5/2019 H thông báo cho chị L biết chi phí sửa chữa máy tính hết 3.200.000 đồng, chị L đã chuyển số tiền vào tài khoản của H để thanh toán tiền sửa máy tính. Nguyễn Văn H khai nhận sau khi sửa xong máy tính mang về để ở phòng trọ đường T, phường C, quận B, thành phố Hà Nội thì bị mất trộm, chị L yêu cầu H phải bồi thường trị giá chiếc máy tính cho chị L.

Ngày 14/9/2020, phòng An ninh đối ngoại Công an tỉnh Hà Nam có Công văn số 317/PA01(XNC) cung cấp thông tin xuất nhập cảnh đối với chị Nguyễn Thị L, thể hiện ngày 11/8/2019 chị L xuất cảnh từ sân bay Nội bài bằng hộ chiếu số C7392394; ngày 20/2/2020 nhập cảnh về Việt Nam; ngày 20/7/2020 xuất cảnh sang Đài Loan(Trung Quốc). Do không có mặt ở nhà để giải quyết vụ án, ngày 13/7/2020 chị Nguyễn Thị L đã ủy quyền cho mẹ đẻ là bà Đinh Thị Q tham gia giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Về dân sự: Ngày 24/8/2020 và ngày 04/9/2020 bà Lâm Thị N trú tại Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam là mẹ đẻ của Nguyễn Văn H đã tự nguyện trả cho bà Đinh Thị Q, người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị L tổng số tiền 71.000.000 đồng (trong đó 56.000.000đồng là tiền bị cáo H chiếm đoạt của chị L còn 15.000.000đồng là tiền sửa chữa và bồi thường chiếc máy tính H đã làm mất), bà Q đã nhận đủ số tiền.

Với hành vi phạm tội nêu trên, tại Cáo trạng số 41/CT-VKS-P2 ngày 17 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn H theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn H từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị HĐXX xem xét trả lại bị cáo 01 thẻ ATM VietinBank, 01 điện thoại Samsung và 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 17B3 - 295.51. Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại di động có số thuê bao 0373028368.

Án phí bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Công an tỉnh Hà Nam, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Nguyễn Văn H quen biết chị Nguyễn Thị L qua mạng facebook, lợi dụng chị L đang cần tìm luật sư trợ giúp trong việc giải quyết phân chia tài sản chung của vợ chồng. Bị cáo H đã nhắn tin đưa ra thông tin gian dối về việc đã tìm, thuê được luật sư cho chị L và yêu cầu chị L chuyển tiền vào tài khoản của bị cáo để đặt cọc, thanh toán chi phí ăn uống đi lại và chi phí ra tòa cho luật sư với mục đích chiếm đoạt tài sản của chị L. Trong thời gian từ ngày 23/7/2019 đến ngày 14/8/2019 tại thành phố P và huyện L chị L và mẹ đẻ là bà Đinh Thị Q đã 04 lần chuyển tiền vào tài khoản 105000903959 mang tên Nguyễn Văn H mở tại Ngân hàng Vietinbank chi nhánh Thanh Xuân, Hà Nội với tổng số tiền 56.000.000đồng. Với số tiền lừa đảo chiếm đoạt trên 50 triệu đồng Nguyễn Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ như Cáo trạng số 41/CT- VKS-P2 ngày 17/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây bức xúc cho bị hại và làm mất trật tự trị an ở địa phương. Trong thời gian vừa qua có rất nhiều vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đưa ra xét xử, với hành vi lừa đảo dưới nhiều hình thức tinh vi như qua điện thoại, mạng facebook, qua môi giới đất đai, giới thiệu việc làm…. Các đối tượng lừa đảo lợi dụng sơ hở, lòng tin của người dân rồi chiếm đoạt tài sản, sự việc đó đã và đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân. Do đó đòi hỏi phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung. Qua phiên tòa hôm nay và những vụ án đã được xét xử trong thời gian qua mong những người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, phát hiện tố giác các loại tội phạm này.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung:

Trong vụ án bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi lừa đảo nhận tiền nhiều lần từ bị hại chị Nguyễn Thị L và mẹ đẻ chị L là bà Đinh Thị Q, cụ thể: 3 lần H nhận số tiền mỗi lần là 15.000.000đồng và 01 lần nhận số tiền 11.000.000đồng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử nhận thấy: Nhân thân bị cáo có tiền sự vào năm 2018 bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi Cản trở người thi hành công vụ, bản thân bị cáo tuổi còn trẻ không chịu khó lao động tạo lập kinh tế gia đình mà đi vào con đường phạm tội. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã tác động đến gia đình bồi thường khắc phục toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt, đại diện cho bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo có bố và ông nội tham gia kháng chiến được tặng thưởng bằng khen, hiện tại gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sỹ và bị cáo từng tham gia nghĩa vụ quân sự, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự bị cáo được hưởng. Với các tình tiết được phân tích ở trên, Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét để quyết định hình phạt tương xứng đối với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo trước khi phạm tội nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp và hiện nay đang bị tạm giam nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị L (đại diện theo ủy quyền là mẹ đẻ bà Đinh Thị Q) đã nhận đủ số tiền bị cáo chiếm đoạt là 56.000.000đồng và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra theo chị L trình bày vào tháng 4/2019 chị có nhờ bị cáo H mang đi sửa hộ chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP bị hỏng màn hình và đã chuyển cho bị cáo số tiền 3.200.000 đồng để sửa máy tính, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận có mang máy tính đi sửa nhưng khi mang về phòng trọ thì bị mất trộm, hiện tại bị cáo đã bồi thường cho chị L số tiền 15.000.000đồng, đây là quan hệ dân sự giữa các bên đã được giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án và án phí: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 thẻ ATM VietinBank, 01 điện thoại Samsung và 01 xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 17B3 - 295.51. Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim điện thoại di động có số thuê bao 0373028368.

Các giấy tờ, tài liệu khác thu giữ của trong quá trình điều tra của đương sự được lưu hồ sơ vụ án.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Xử phạt Nguyễn Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/8/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0373028368, số sim 8984048000035579482.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H : 01 thẻ ATM ngân hàng VietinBank số thẻ 9704151527145636; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A9- 2018, số IMEI 359933098401242 cùng 02 sim có số thuê bao 0818030999 và 0977825359 và 01 xe máy Yamaha Exciter màu đỏ đen, BKS 17B3 - 29551, số máy G3D4E-397399, số khung RLCUG0610GY378786.

(Tình trạng đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam).

Các giấy tờ, tài liệu khác thu giữ trong quá trình điều tra của đương sự được lưu hồ sơ vụ án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai báo cho bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;