Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mù Cang Chải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 07/2020/TLST-HNGĐ ngày 12/11/2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST- HNGĐ ngày 02/02/2021giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Hảng Thị T, sinh năm 1995 Trú tại: Bản L, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

2. Bị đơn: anh Giàng A S, sinh năm 1993 Trú tại: Bản L, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 11 năm 2020 và bản tự khai ngày 18 tháng 11 năm 2020, nguyên đơn chị Hảng Thị T trình bày: Chị và anh Giàng A S kết hôn năm 2014, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Anh S, chị T chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Giàng A S không chịu làm ăn, suốt ngày đi chơi lang thang có biểu hiện nghiện ma túy dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau, đã được hai bên gia đình hoà giải, động viên. Tuy nhiên tình cảm vợ chồng vẫn không thể cải thiện được, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn anh Giàng A S.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/12/2020 anh Giàng A S thừa nhận anh và chị T kết hôn năm 2014, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên bái. Trong thời gian chung sống với nhau có xảy ra mâu thuẫn, nhưng anh S vẫn còn tình cảm với chị T; năm 2019 bản thân bị tai nạn (gẫy chân) hiện nay đang điều trị chưa khỏi, cần có sự quan tâm, chăm sóc của vợ đề nghị Tòa án giải quyết về đoàn tụ.

Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/01/2021 tại Ủy ban nhân dân xã La Pán Tẩn xác định chị Hảng Thị T và anh Giàng A S thường xuyên có mâu thuẫn, nguyên nhân là anh S không chịu làm ăn, thường xuyên đi lang thang, có biểu hiện sử dụng ma túy, bạo lực gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn đã được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không thành; chị T và anh S đã ly thân từ tháng 9/2020 đến nay.

Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/01/2021 tại Công an xã La Pán Tẩn xác định anh Giàng A S có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản hiện đang thuộc diện quản lý của Công an xã đối người sau khi chấp hành án phạt tù trở về địa phương và nằm trong dach sách nghi nghiện ma túy của Ủy ban nhân dân xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải , tỉnh Yên Bái.

Về con chung: Chị Hảng Thị Tvà anh Giàng A S đều thừa nhận có 02 con chung là Giàng Thị Ngọc H, sinh ngày 16/6/2014 và Giàng Công V, sinh ngày 19/9/2016, hiện nay hai cháu đang ở cùng mẹ tại bản Lao Chải, xã Lao Chải. huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Sau khi Ly hôn chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Thị Ngọc H, anh S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Công V và không ai phải cấp dưỡng nuôi con; tại phiên tòa Anh S yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đảm bảo đúng quy định. Các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong việc tham gia tố tụng; Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Hảng Thị T;

Về việc nuôi con chung: Chị Hảng Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Thị Ngọc H, anh Giàng A S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Công V. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hảng Thị T và anh Giàng A S kết hôn năm 2014, đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Trong quá trình chung sống chị T và anh S đã phát sinh nhiều mẫu thuẫn; nguyên nhân do anh Giàng A S không chịu làm ăn, suốt ngày đi chơi lang thang và có biểu hiện sử dụng ma túy, dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau, mâu thuẫn gia đình trầm trọng; hai bên gia đình đã hòa giải, động viên, giữa chị T và anh S nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh S là hợp pháp, nhưng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó Toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Hảng Thị T được ly hôn với anh Giàng A S.

[3] Về con chung: Chị Hảng Thị T và anh Giàng A S không thống nhất được với nhau về việc nuôi con chung; để đảm bảo quyền lợi của các con Hội đồng xét xử cần Giao cho chị Hảng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Thị Ngọc H, sinh ngày 16/6/2014, giao cho anh Giàng A S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Công V, sinh ngày 19/9/2016. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng phải đảm bảo quyền thăm nom các con, không ai được cản trở.

[4] Về án phí: Các đương sự phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về kháng cáo: Các đương sự được kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 35, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hảng Thị T được ly hôn với anh Giàng A S.

2. Về con chung: Chị Hảng Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Thị Ngọc H, sinh ngày 16/6/2014; anh Giàng A S được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Giàng Công V, sinh ngày 19/9/2016. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Hảng Thị T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2013/03219 ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mù Cang Chải. Chị T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;