Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 234/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lương Thị Kiều N, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp 2, xã H, huyện Đ, tỉnh L.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: số 110 ấp 1, xã N, thành phố T, tỉnh L.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 23 tháng 6 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà Lương Thị Kiều N trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố T, tỉnh L vào năm 2013. Vợ chồng chung sống đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, chơi bời, bài bạc, không chí thú làm ăn làm cho bà cảm thấy rất ngột ngạt trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vả, không thể hàn gắn được. Bà và ông T đã ly thân từ đầu năm 2020. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: bà và ông T có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Phương N, sinh ngày 18/5/2014. Bà có yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Lương Thị Kiều N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bà xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án nhưng ông T không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, phiên hòa giải do Tòa án tổ chức, không có văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con của bà N. Phiên tòa hôm nay, ông T cũng vắng mặt dù đã được tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Về ý kiến của Viện kiểm sát:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến tham gia phiên tòa. Bà Lương Thị Kiều N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định tại các Điều 227; Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa Bà Lương Thị Kiều N và ông Nguyễn Văn T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, do bà N và ông T có mâu thuẫn không thể hàn gắn được, nhận thấy hôn nhân giữa bà N và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, quan hệ hôn nhân không thể kéo dài. Từ đó có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N. Xét con chung hiện đang sống chung với bà N, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho con chung, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56; Điều 89; Điều 91; Điều 92; Điều 93; Điều 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N; giao con chung chưa thành niên Nguyễn Ngọc Phương N, sinh ngày 18/5/2014 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà N không có yêu cầu. Đương sự phải nộp án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Lương Thị Kiều N nộp đơn yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T có địa chỉ cư trú ở thành phố T, tỉnh L nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

Bà N và ông T xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2013 nên áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình (năm 2000) để giải quyết về nội dung theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình (năm 2014).

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông T đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng ông T không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt đối với ông T là đúng theo quy định tại Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt tất cả các được sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị Kiều N và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố T, tỉnh L vào năm 2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tòa án cũng đã có xác minh về quan hệ tranh chấp dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng của bà N và ông T tại UBND xã N, thành phố T, Long An nơi ông T sinh sống theo quy định tại Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng địa phương không nắm rõ nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng giữa Bà Lương Thị Kiều N và ông Nguyễn Văn T. Bà N xác định vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, chơi bời, bài bạc, không chí thú làm ăn làm cho bà cảm thấy rất ngột ngạt trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vả, không thể hàn gắn được. Xét thấy, cuộc sống vợ chồng giữa bà N và ông T không có tiếng nói chung, không có sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Ông T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, được tống đạt hợp lệ, các văn bản tố tụng của Tòa án cho thấy ông T đã biết được việc bà N yêu cầu ly hôn với ông nhưng ông không có văn bản thể hiện ý kiến là muốn được đoàn tụ hoặc đưa ra những biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, chứng tỏ rằng trong cuộc sống vợ chồng giữa bà N và ông T đã có những mâu thuẫn không giải quyết được. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân của bà N và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đồng thời, bản thân bà N xác định đã không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu được chấm dứt hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000).

Về con chung: bà N và ông T 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Phương N, sinh ngày 18/5/2014. Bà N có yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung khi ly hôn. Xét thấy, bà N có thu nhập ổn định đủ khả năng để nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án ông T không có ý kiến gì về nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho con chung chưa thành niên, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình (năm 2000).

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.

[4] Về án phí: Bà N phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm khi ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 56; Điều 89; Điều 91; Điều 92; Điều 93; Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000); Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2014); Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Bà Lương Thị Kiều N và ông Nguyễn Văn T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Phương N, sinh ngày 18/5/2014 cho Bà Lương Thị Kiều N trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ông Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà N không có yêu cầu.

2.3. Người không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con được quyền yêu cầu hạn chế quyền thăm nom nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom làm ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con chung, các bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Bà Lương Thị Kiều N phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai thu số 0004837 ngày 13/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;