Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 115/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc“Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 115/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã I, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai Chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk (có mặt)

2.Bị đơn: Anh Bùi Văn S, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn xx, thị trấn P, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện nộp ngày 19/10/2020, bản tự khai, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn S tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn ngày 16/10/2014, tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, nguyên nhân là do anh S chơi cá độ đá banh dẫn đến nợ nần, chị và gia đình đã khuyên nhủ và trả nợ cho anh S nhiều lần nhưng anh S vẫn không sửa đổi. Sau đó, do không có tiền trả nợ, người ta đến đòi nợ nhiều lần, hai mẹ con chị không dám ở nhà mà phải sống nhờ nhà người khác. Từ năm 2017 đến nay chị và anh S đã sống ly thân, vợ chồng không còn bất kỳ quan hệ tình cảm hay kinh tế với nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn S.

Về con chung: Chị và anh S có 01 con chung là Bùi Trần Anh D, sinh ngày 06/4/2015.

Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con.

Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Chị không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.Ngoài ra, chị không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bị đơn là anh Bùi Văn S: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên hoà giải, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về việc nêu ý kiến đối với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh S không đến Toà án để làm việc, không cung cấp cho Toà án văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56; 81; 82; 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Bùi Văn S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Mỹ T và anh Bùi Văn S tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 16/10/2014, tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Việc kết hôn của anh chị đúng theo quy định pháp luật, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, chị T cho rằng vợ chồng chị thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S chơi cá độ đá banh dẫn đến nợ nần, chị và gia đình đã khuyên nhủ và trả nợ cho anh S nhiều lần nhưng anh S vẫn không sửa đổi. Sau đó, do không có tiền trả nợ, người ta đến đòi nợ nhiều lần, hai mẹ con chị không dám ở nhà, mà phải sống nhờ nhà người khác. Từ năm 2017 đến nay chị và anh S đã sống ly thân, vợ chồng không còn quan hệ tình cảm hay kinh tế với nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn S. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, nhưng anh S không lên Tòa án làm việc và không có ý kiến gửi choTòa án, cố tình trốn tránh pháp luật, thể hiện anh S không có thiện chí hàn gắn tình cảm để cùng chị T đoàn tụ gia đình, nuôi dạy con cái.

Xét tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh S đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Mỹ T xin ly hôn với anh Bùi Văn S.

Về con chung: Giữa chị T và anh S có 01 con chung là Bùi Trần Anh D, sinh ngày 06/4/2015. Ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung.

Xét nguyện vọng của chị T thì thấy rằng: Hiện nay cháu Bùi Trần Anh D đang có cuộc sống ổn định với mẹ, chị T có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Do đó, căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của chị T.

Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Chị T không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con, nên không xem xét.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị Trần Thị Mỹ T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83; 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về hôn nhân: Chị Trần Thị Mỹ T được ly hôn với anh Bùi Văn S.

Về con chung: Giao cháu Bùi Trần Anh D, sinh ngày 06/4/2015 cho chị T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị T.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Buộc chị Trần Thị Mỹ T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số: 0010228 ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

Chị Trần Thị Mỹ T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;