TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 03/2021/DS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 252/2019/TLST- DS ngày 24 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 288/2020/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Tạ Ngọc N, địa chỉ thường trú: Số 14 Đường P, Khóm 1, Phường 1, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Ch ở hiện nay: Số 60 đường M, Khóm 3, Phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phan Hoàng N1, địa chỉ: Số 50 Đường T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Ch ở hiện nay: Số 60 đường M, Khóm 3, Phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; (Văn bản ủy quyền ngày 03 tháng 12 năm 2019 - vắng mặt)
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn T (vắng mặt).
2. Bà Hồng Bích P (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số 232 Đường N, Khóm 3, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 03/12/2019 của nguyên đơn và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12/01/2021 của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
Bà Tạ Ngọc N và vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Hồng Bích P quen biết nhau nhiều năm, nên bà N có cho ông T, bà P vay tiền tổng cộng 3 lần, cụ thể: Lần 1: vào ngày 06/7/2014, bà N cho bà P vay 100.000.000 đồng. Lần 2: vào ngày 03/9/2016, bà N cho ông T vay 50.000.000 đồng, Lần 3: vào ngày 19/10/2016, bà N cho ông T vay 100.000.000 đồng. Do đến hạn trả nợ nhưng ông T và bà P không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà N. Bà N yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Văn T và bà Hồng Bích P phải trả 03 khoản cho bà N nợ gốc và lãi là: 340.000.000 đồng, Trong đó: nợ gốc: 250.000.000 đồng, tiền lãi 90.000.000 đồng (tính từ ngày 14/01/2017 đến 14/01/2021: 250.000.000 đồng x 9%/năm x 4 năm) và ông T, bà P phải trả lãi cho đến khi thanh toán hết nợ gốc.
Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đã nộp các tờ cam kết, ngày 06/7/2014, họ tên và chữ ký người mượn Hồng Bích P; tờ cam kết, ngày 03/9/2016, họ tên và chữ ký người mượn Nguyễn Văn T; tờ cam kết, ngày 19/10/2016, họ tên và chữ ký người mượn Nguyễn Văn T; các bản sao Sổ hộ khẩu, chủ hộ: Nguyễn Văn T; Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T Giấy chứng minh nhân dân mang tên Hồng Bích P;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị Tòa án nhận chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự: Ông Nguyễn Văn T, bà Hồng Bích P không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu mà bà Tạ Ngọc N đã trình bày và giao nộp cho Tòa án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khiệnghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bà Tạ Ngọc N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Thanh T và bà Hồng Bích P trả nợ gốc và lãi kèm theo các tờ cam kết ngày 06/7/2014, ngày 03/9/2016, ngày 19/10/2016; ông Nguyễn Thanh T và bà Hồng Bích P cư trú tại số 232 Đường N, Khóm 3, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
[2] Đối với nguyên đơn có người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Phan Hoàng N1 vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt tại phiên tòa đối với nguyên đơn.
[3] Đối với ông Nguyễn Văn T và bà Hồng Bích P quá trình tố tụng Tòa án tiến hành cấp tống đạt văn bản tố tụng đối với ông Nguyễn Thanh T và bà Hồng Bích P theo địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp trong 03 tờ cam kết, qua xác minh ông T và bà P không có mặt tại địa chỉ số 232 Đường N, Khóm 3, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015, ông T và bà P không có mặt tại địa chỉ trên và không thông báo cho nguyên đơn về việc thay đổi nơi cư trú; ông T, bà P chưa có thông tin xuất nhập cảnh thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiến hành giải quyết theo thủ tục chung. Ông T và bà P từ khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án đến đưa vụ án ra xét xử đã được niêm yết đảm bảo theo quy định tại khoản 5 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định: Ông T và bà P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với ông, bà.
[4] Về pháp luật áp dụng nội dung: Theo quy định tại Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015. Điều khoản chuyển tiếp: “1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: …b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này”; Đối với tranh chấp hợp đồng vay tài sản mà bà Tạ Ngọc N yêu cầu Tòa án giải quyết chưa thực hiện có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2015 nên pháp luật áp dụng nội dung theo quy định Bộ luật dân sự 2015.
[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tạ Ngọc N: Bà N khởi kiện ông Nguyễn Văn T và bà Hồng Bích P trả số tiền nợ gốc 250.000.000 đồng, cung cấp 03 Tờ cam kết ngày 06/7/2014, ngày 03/9/2016, ngày 19/10/2016 có chữ ký và viết tên “Hồng Bích P” và “Nguyễn Văn T” là chứng cứ theo quy định khoản 1 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự và bị đơn không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, nguyên đơn cung cấp thì nguyên đơn không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, đủ cơ sở Hội đồng xét xử xác định: Ông T và bà P có vay tiền của bà Tạ Ngọc N với số tiền tổng cộng 250.000.000 đồng, trong ba lần vay, bà P và ông T cam kết góp trả đủ số tiền trong thời hạn cam kết đối với từng lần vay. Tuy nhiên, đến hạn như cam kết từng lần vay, bà P và ông T vẫn chưa trả đủ tiền như cam kết đã vi phạm sự thỏa thuận giữa các bên theo quy định tại Điều 463 và khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 về hợp đồng vay tài sản và nghĩa vụ trả nợ của bên vay phải trả đủ tiền khi đến hạn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Tạ Ngọc N đối với phần nợ gốc là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về lãi suất: Tại nội dung 03 tờ cam kết không xác định được rõ lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ. Căn cứ vào khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự: Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Như vậy, lãi suất trong trường hợp không xác định rõ lãi suất là không được vượt quá 10%/năm. Do đó, Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi suất trong từng lần vay, với mức lãi suất 9%/năm (từ ngày 14/01/2017 đến ngày 14/01/2021) là có cơ sở chấp nhận.
[7]. Về trách nhi m của ông T và bà P đối với yêu cầu của bà N: Ông T và bà P là vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với yêu cầu của bà N theo quy định Điều 27; Điều 30 và Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên ông Nguyễn Văn T và bà Hồng Bích P là bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 2 Điều 92, Khoản 1 Điều 95, Điểm a, b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 463, khoản 1 Điều 466, khoản 2 Điều 468; điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ vào Điều 27, Điều 30 và Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tạ Ngọc N:
Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Hồng Bích P có trách nhiệm liên đới trả cho bà Tạ Ngọc N số tiền còn nợ tổng cộng 340.000.000 đồng; (Ba trăm bốn mươi triệu đồng), trong đó: nợ gốc: 250.000.000 đồng, tiền lãi 90.000.000 đồng;
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2/. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Tạ Ngọc N không phải chịu, trả lại cho bà N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.050.000 đồng (Mười một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai số 0001497 ngày 04/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Ông Nguyễn Văn T và bà bà Hồng Bích P phải chịu là 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng) 3/. Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
Bản án 03/2021/DS-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 03/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về