Bản án 03/2020/LĐ-PT ngày 14/01/2020 về tranh chấp đòi tiền trợ cấp thôi việc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 03/2020/LĐ-PT NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN TRỢ CẤP THÔI VIỆC

Ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLPT-LĐ ngày 12 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Đòi tiền trợ cấp thôi việc”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 05/09/2019 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 390/2019/QĐ-PT ngày 16 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị K, sinh năm 1978;

Đa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Trà Duy L, sinh năm 1967 (có mặt);

(Theo văn bản ủy quyền ngày 26/8/2019);

Đa chỉ: Đường T, Phường T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Hp tác xã C (trước đây là Hợp tác xã Đan len C);

Đa chỉ: Cụm Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp T, Phường C, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Đặng Ngọc D, sinh năm: 1962 – Chức vụ: Chủ nhiệm (có mặt);

Đa chỉ: Đường B, Phường M, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Dệt len P;

Đa chỉ: Cụm Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp T, Phường C, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tạ Phạm Phi C – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị;

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Ngọc D, sinh năm: 1962; (Theo văn bản ủy quyền ngày 27/6/2019);

Đa chỉ: Đường B, Phường M, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn chị Huỳnh Thị K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm; Nguyên đơn chị Huỳnh Thị K trình bày:

Chị vào làm việc tại Hợp tác xã Đan len C (viết tắt là Hợp tác xã) với nhiệm vụ là nhân viên KCS – Kiểm tra chất lượng sản phẩm từ tháng 4/2003, làm đến tháng 02/2009. Từ tháng 3/2009 thì Hợp tác xã ngưng không hoạt động, chị chuyển qua Công ty P làm việc đến tháng 02/2014 thì nghỉ làm ở Công ty. Đến tháng 3/2014, chị ký hợp đồng với Hợp tác xã C, chị làm việc đến tháng 5/2017 thì xin nghỉ việc cho đến nay. Tất cả các giai đoạn này chị đều có ký hợp đồng nhưng chị không có giữ hợp đồng. Khi nghỉ việc, Công ty P đã thanh toán chế độ bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp xong. Sổ bảo hiểm do Bảo hiểm giữ. Thời gian chị làm việc tại Hợp tác xã từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009 là trên 05 năm, chị chưa được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc giai đoạn này. Mức lương của chị tại tháng 02/2009 là 931.500 đồng.

Hợp đồng lao động giữa chị và Hợp tác xã chấm dứt từ tháng 5/2017. Đến ngày 15/4/2019, Hợp tác xã C có thông báo cho nhân viên việc nộp sổ theo dõi quá trình tham gia Bảo hiểm xã hội để Hợp tác xã chi trả trợ cấp thôi việc cho chị giai đoạn từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009, nhưng Hợp tác xã tính trợ cấp thôi việc không đúng quy định pháp luật về lao động.

Nay chị yêu cầu Hợp tác xã C trợ cấp thôi việc cho chị (tính từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009), tính tròn 6 năm, mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng lương, nên phải trợ cấp cho chị 3 tháng lương, với mức lương bình quân tại thời điểm năm 2017 là 5.975.666 đồng x 3 tháng = 17.927.000 đồng và yêu cầu tính lãi 10%/năm (từ ngày 01/7/2017 đến ngày khởi kiện 01/6/2019 là 23 tháng với số tiền là 3.436.008 đồng), tổng cộng phải trả số tiền tính tròn là 21.363.000 đồng, yêu cầu trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

Người đại diện theo pháp luật của bị đơn Hợp tác xã C – bà Đặng Ngọc D trình bày:

Hợp tác xã C có ký Hợp đồng lao động với chị Huỳnh Thị K từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009. Từ tháng 3/2009, chị K chuyển qua Công ty P làm việc đến tháng 02/2014. Từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2017, chị K ký hợp đồng với Hợp tác xã C. Tất cả các giai đoạn trên, Hợp tác xã C và Công ty P đã đóng đầy đủ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho chị K.

Hợp tác xã C và Công ty P là hai pháp nhân hoàn toàn khác nhau, thành lập và hoạt động độc lập, có mã số thuế khác nhau.

Năm 2009, Hợp tác xã gặp khó khăn nên ngưng hoạt động và chấm dứt Hợp đồng lao động với chị K. Thời điểm cuối năm 2008, lương của chị K là 931.500 đồng/tháng; tháng 01 và tháng 02/2009 là 1.152.300 đồng/tháng. Hợp tác xã chấm dứt Hợp đồng lao động với chị K nhưng chưa thanh toán chế độ trợ cấp thôi việc cho chị K. Sau khi chấm dứt Hợp đồng lao động với Hợp tác xã thì chị K chuyển qua làm tại Công ty P từ tháng 3/2009 đến tháng 02/2014.

Tháng 3/2014, Công ty P ngưng sản suất hàng dệt len nên cho Hợp tác xã thuê nhà xưởng và máy móc của Công ty P thì Hợp tác xã hoạt động lại. Hợp tác xã ký Hợp đồng lao động mới với chị K. Chị K làm đến tháng 5/2017 thì xin nghỉ việc, Hợp tác xã đã giải quyết chế độ giai đoạn này cho chị K xong.

Riêng giai đoạn từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009 chưa thanh toán cho chị K. Vào năm 2017, Hợp tác xã bán được tài sản sau khi thanh toán các khoản nợ vay Ngân hàng, thuế Nhà nước xong, còn dư khoản tiền thì Hợp tác xã xin ý kiến Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Tiền Giang để Hợp tác xã C chi hỗ trợ trợ cấp thôi việc cho người lao động, trong đó có chị K.

Cách tính hỗ trợ trợ cấp thôi việc cho chị K như sau:

- Tiền lương của tháng 9, 10, 11, 12/2008 là 901.800 đồng/tháng; tiền lương của tháng 01, 02/2009 là 1.152.300 đồng/tháng. Tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề là: (901.800 đồng/tháng x 4 tháng + 1.152.300 đồng/tháng x 2 tháng) : 6 = 985.300 đồng.

- Số tiền hỗ trợ cho chị K: 985.300 đồng x 3 tháng = 2.955.900 đồng, tính thêm lãi suất 6%/năm, lãi nhập vốn 10 năm với số tiền lãi là 2.337.667 đồng, tổng cộng là 5.293.567 đồng, nhưng chị K không đồng ý nhận số tiền này.

Nay chị K khởi kiện yêu cầu Hợp tác xã trợ cấp thôi việc, tính mức lương tại thời điểm năm 2017 là không hợp lý, Hợp tác xã không đồng ý vì từ tháng 3/2009 đến tháng 02/2014 thì Công ty P đã hoàn thành nghĩa vụ đối với chị K.

Từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2017, Hợp tác xã đã hoàn thành nghĩa vụ đối với chị K xong. Còn giai đoạn từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009, Hợp tác xã chưa thanh toán trợ cấp thôi việc cho chị K, nhưng chỉ đồng ý hỗ trợ trợ cấp thôi việc cho chị K với số tiền là 5.293.567 đồng.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần Dệt len P – bà Đặng Ngọc D trình bày:

Công ty P và Hợp tác xã C là hai pháp nhân độc lập, không có liên quan gì nhau. Công ty P có ký Hợp đồng lao động với chị K từ tháng 3/2009 đến tháng 02/2014 và đã đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ thể hiện qua Thông báo số 1215/TB-BHXH, Kết quả đóng bảo hiểm xã hội tháng 02/2014, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và Ủy nhiệm chi nộp tiền ngày 27/02/2014. Giai đoạn này Công ty P đã giải quyết chế độ cho chị K xong. Theo yêu cầu của chị K, Công ty P không đồng ý, chỉ đồng ý theo ý kiến của Hợp tác xã C.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Nguyễn Trà Duy L yêu cầu Hợp tác xã trả tiền trợ cấp thôi việc 3 tháng lương, tính theo mức lương bình quân của 06 tháng liền kề tại thời điểm năm 2016, 2017 là 5.975.666 đồng x 3 tháng với số tiền tính tròn là 17.927.000 đồng; rút lại yêu cầu tính lãi do chậm thực hiện trả tiền trợ cấp thôi việc Tại Bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng điểm b khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 48, Điều 202 Bộ luật Lao động năm 2012; Điều 157, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự; điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NQ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động; khoản 5 Điều 1 Nghị định số 148/2018/NQ-CP ngày 24/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động; Thông tư số 17/2018/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2018 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định về tự kiểm tra việc tự thực hiện pháp luật lao động của doanh nghiệp xử:

1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của chị Huỳnh Thị K về việc yêu cầu Hợp tác xã C trả tiền lãi do chậm thực hiện trả trợ cấp thôi việc.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị K.

Ghi nhận Hợp tác xã C chi trợ cấp thôi việc cho chị Huỳnh Thị K số tiền 5.293.567 đồng, khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 10/9/2019, nguyên đơn chị Huỳnh Thị K có đơn kháng cáo với nội dung: Buộc Hợp tác xã C trả cho chị một lần khi án có hiệu lực pháp luật: Trợ cấp thôi việc của chị bằng 03 tháng lương của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc là 5.975.700 đồng/tháng x 3 tháng = 17.927.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm;

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp luật. Về nội dung yêu cầu kháng cáo của chị K: yêu cầu Hợp tác xã C trợ cấp thôi việc từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009 bằng 03 tháng lương của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc với mức lương bình quân thời điểm năm 2016, 2017 là 5.975.700 đồng, số tiền là 17.927.000 đồng là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp “Đòi tiền trợ cấp thôi việc” là có căn cứ.

[2] Về nội dung kháng cáo: chị Huỳnh Thị K kháng cáo yêu cầu Hợp tác xã C trả cho chị một lần khi án có hiệu lực pháp luật: Trợ cấp thôi việc của chị bằng 03 tháng lương của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc, từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009 với mức lương bình quân tại thời điểm năm 2016, 2017 là 5.975.700 đồng/tháng x 3 tháng = 17.927.000 đồng.

[3] Tại phiên tòa các đương sự trình bày thống nhất Hợp tác xã C có ký Hợp đồng lao động với chị Huỳnh Thị K từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009.

Từ tháng 3/2009, Hợp tác xã C ngưng hoạt động, chị K chuyển qua Công ty Cổ phần Dệt len P làm việc đến tháng 02/2014 thì chấm dứt Hợp đồng lao động với Công ty P.

Từ tháng 3/2014, chị K ký Hợp đồng lao động với Hợp tác xã C và làm đến đến tháng 5/2017 thì xin nghỉ việc, Hợp tác xã C đã giải quyết chế độ giai đoạn này cho chị K xong.

Tất cả các giai đoạn trên, Hợp tác xã C và Công ty P đã đóng đầy đủ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho chị K.

Hợp tác xã C và Công ty P là hai pháp nhân hoàn toàn khác nhau, thành lập và hoạt động độc lập, có mã số thuế khác nhau.

[4] Chị K yêu cầu Hợp tác xã C trợ cấp thôi việc cho chị (tính từ tháng 4/2003 đến tháng 02/2009), tính tròn 6 năm, mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng lương, trợ cấp cho chị 3 tháng lương, với mức lương bình quân tại thời điểm năm 2016, 2017 là 5.975.666 đồng x 3 tháng = 17.927.000 đồng.

[5] Hợp tác xã C không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị K, chỉ đồng ý hỗ trợ cho chị K tiền trợ cấp thôi việc tại thởi điểm tháng 02/2009 theo cách tính như sau:

- Tiền lương của tháng 9, 10, 11, 12/2008 là 901.800 đồng/tháng; tiền lương của tháng 01, 02/2009 là 1.152.300 đồng/tháng. Tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề là: (901.800 đồng/tháng x 4 tháng + 1.152.300 đồng/tháng x 2 tháng) : 6 = 985.300 đồng.

- Số tiền hỗ trợ cho chị K: 985.300 đồng x 3 tháng = 2.955.900 đồng, tính thêm lãi suất 6%/năm, lãi nhập vốn 10 năm với số tiền lãi là 2.337.667 đồng, tổng cộng là 5.293.567 đồng.

[6] Xét thấy tại thời điểm tháng 02/2009, Hợp tác xã C và chị Huỳnh Thị K chấm dứt Hợp đồng lao động, chị K chưa được Hợp tác xã C thanh toán tiền trợ cấp thôi việc. Căn cứ Điều 42 Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007); Điều 15 Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương; Điều 14 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động, xác định mức lương bình quân 06 tháng liền kề trước khi chị K nghỉ việc là 985.300 đồng (các bên đương sự đều thừa nhận như cách tính ở Tòa án cấp sơ thẩm) là phù hợp quy định của pháp luật tại thời điểm trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng cấp sơ thẩm áp dụng quy định tại Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012, điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động; khoản 5 Điều 1 Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động để giải quyết vụ án là chưa chính xác nên cấp phúc thẩm cần điều chỉnh lại.

[7] Án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị K, ghi nhận Hợp tác xã C chi tiền trợ cấp thôi việc cho chị K tại thời điểm tháng 02/2009 số tiền 2.955.900 đồng và tính thêm tiền lãi theo lãi suất 6%/năm, lãi nhập vốn 10 năm số tiền lãi 2.337.667 đồng, tổng cộng là 5.293.567 đồng là bảo đảm quyền lợi cho chị K. Do đó không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị K yêu cầu Hợp tác xã C trợ cấp thôi việc cho chị K bằng 03 tháng lương của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc với mức lương bình quân tại thời điểm năm 2016, 2017 là 5.975.700 đồng/tháng x 3 tháng = 17.927.000 đồng.

[8] Xét ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở nên được chấp nhận.

[9] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[10] Về án phí: Chị K được miễn án phí lao động sơ thẩm và án phí lao động phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 42 Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002), Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2006), Bộ luật Lao động năm năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2007);

Căn cứ Điều 15 Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương;

Căn cứ Điều 14 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao động;

Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Huỳnh Thị K, giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

1/ Đình chỉ giải quyết yêu cầu của chị Huỳnh Thị K về việc yêu cầu Hợp tác xã C trả tiền lãi do chậm thực hiện trả trợ cấp thôi việc.

2/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị K.

Ghi nhận Hợp tác xã C chi trợ cấp thôi việc cho chị Huỳnh Thị K số tiền 5.293.567 đồng. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày chị Huỳnh Thị K có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Hợp tác xã C chậm thi hành thì còn phải chịu thêm khoản lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

3/ Về án phí: Hợp tác xã C phải chịu 300.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

705
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/LĐ-PT ngày 14/01/2020 về tranh chấp đòi tiền trợ cấp thôi việc

Số hiệu:03/2020/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;