Bản án 03/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2020/TLST - HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST – HS ngày 27/3/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Duy Thành Đ - Sinh ngày: 30/3/1994 tại thị trấn H, huyện H, tỉnh T. Nơi cư trú: Tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Duy T – sinh năm 1960 và con bà Nguyễn Thị Bích H - Sinh năm: 1968. Có vợ tên là: Nguyễn Thị Ngọc T - Sinh năm: 1998 và có 01 con sinh năm 2018. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Nhân thân: Từ nhỏ được bố mẹ cho ăn học đến hết lớp 12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình, năm 2018 cưới vợ và sinh sống tại địa phương. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2020 đến ngày 14/01/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 10/2020/LCĐKNCT ngày 13/3/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Phan Thanh D - Sinh ngày: 13/3/1994 tại xã Đại Lộc, huyện H, tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện H, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Thanh N – sinh năm 1958 và con bà Lê Thị P - Sinh năm: 1960. Có vợ tên là: Nguyễn Hoàng L - Sinh năm: 2001 và có 01 con sinh năm 2018. Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Nhân thân: Từ nhỏ được bố mẹ cho ăn học đến hết lớp 11 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình, năm 2013 tham gia nghĩa vụ quân sự, năm 2017 cưới vợ và sinh sống tại địa phương. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2020 đến ngày 14/01/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 40 phút ngày 08/01/2020 tại khu vực cửa hàng xăng dầu Tân Sơn, thuộc xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác Công an huyện Vĩnh Lộc phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Duy Thành Đ sinh năm 1994, trú quán tại tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H và Phan Thanh D sinh năm 1994, trú quán tại thôn P, xã Đ, huyện H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay Phan Thanh D 01 (một) túi ni lon kích thước 2 x 1.5 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, Đ và D khai là ma túy đá. Tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Nguyễn Duy Thành Đ, Cơ quan điều tra thu giữ tại ngăn kéo bàn trang điểm trong phòng ngủ của Đ 01 (một) túi ni lon kích thước 2 x 1.5cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng Đ khai là ma túy đá (BL: 01 - 02).

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ 01 (một) xe máy BKS: 36L6-7236, số máy VDGZS152FMH-J00001891, số khung HJND51001891. (BL: 93) Ngày 09/01/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Lộc đã trưng cầu Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa giám định toàn bộ số tang vật nghi là ma túy đá thu giữ trên tay Phan Thanh D và trong nhà Nguyễn Duy Thành Đ. Tại bản kết luận giám định số 470/PC09 ngày 10/01/2020 của Phòng PC09 Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận các hạt tinh thể màu trắng thu giữ trên người Phan Thanh D là ma túy đá, có tổng khối lượng 0,344g (không phẩy ba bốn bốn gam) loại: Methamphetamine. Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ tại nhà Nguyễn Duy Thành Đ là ma túy đá, có tổng khối lượng 0,384g (không phẩy ba tám bốn gam) loại: Methamphetamine. (BL: 13).

Methamphetamine là ma túy đá nằm trong danh mục các chất và tiền chất, STT 323, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đ và D khai nhận vào chiều ngày 08/01/2020 Nguyễn Duy Thành Đ điều khiển chiếc xe Mô tô BKS: 36L6- 7236 của vợ Đ, chở theo Phan Thanh D đến khu vực nhà máy thuốc lá huyện H mua của một người đàn ông không quen biết 02 (hai) túi ma túy đá với giá 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng). Đ là người trực tiếp đứng ra mua, D ngồi trông xe. Sau khi mua được ma túy, Đ đưa cho D một túi, còn một túi Đ cất giấu trong người rồi cùng nhau về nhà Đ để sử dụng. Khi về đến nhà Đ, do có người ở nhà, sợ bị phát hiện nên Đ liền mang túi ma túy trong người mang vào cất giấu tại ngăn kéo bàn trang điểm rồi cùng D mang túi ma túy D đang giữ lên Vĩnh Lộc để cùng nhau sử dụng. Đ điều khiển xe Mô tô BKS 36L6-7236 chở theo Phan Thanh D, khi đi đến khu vực cửa hàng xăng dầu Tân Sơn, thuộc xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc thì bị phát hiện và thu giữ toàn bộ số ma túy mang theo. Lời khai của Nguyễn Duy Thành Đ và lời khai của Phan Thanh D phù hợp với nhau, phù hợp với tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác thu thập được trong quá trình điều tra (BL: 01 - 02; 118 - 133; 134 - 147).

Ngoài lần bị bắt quả tang, Đ và D khai nhận còn một vài lần mua ma túy của cùng người đàn ông không quen biết ở khu vực nhà máy thuốc lá Hà Trung để sử dụng. Tuy nhiên quá trình điều tra không đủ cơ sở để xác định cụ thể người đàn ông đã bán ma túy cho Đ và D nên không xử lý; không đủ cơ sở để xử lý Đ và D về những lần vi phạm trước đó.

Đối với chiếc xe Mô tô BKS: 36L6-7236, số máy VDGZS152FMH- J00001891, số khung HJND51001891 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Ngọc T, chị T không biết các bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Lộc đã trả lại xe cho chị T là phù hợp. (BL: 113).

Tại bản Cáo trạng số: 03/CT- VKSVL ngày 11/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc truy tố bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D, về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ mức án từ 15 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án được trừ đi 06 ngày đã tạm giữ trước đó (từ ngày 08/01/2020 đến ngày 14/01/2020).

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phan Thanh D mức án từ 15 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (08/01/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và bị cáo Phan Thanh D.

Xử lý vật chứng và án phí HSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Lộc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của các bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng, cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 08/01/2020 Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D đã có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,728g (không phẩy bảy hai tám gam) Methamphetamine (ma túy đá) để sử dụng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về ma túy. Do đó, hành vi nêu trên của các bị cáo Đ và D đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét về tính chất, mức độ hành vi, hậu quả thấy rằng:

Tội phạm về ma túy là nguy hiểm cho xã hội, nó đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội, ma túy không những ảnh hưởng tới sức khỏe, phẩm giá của con người, hạnh phúc của gia đình, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội, ma túy chính là tác nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác, chính vì thế Đảng và Nhà nước đã không ngừng tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa các tội phạm về ma túy. Hành vi của các bị cáo Đ và D bị xã hội lên án, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do vậy cần xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục các bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật đồng thời để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Vì vậy, HĐXX cần lên cho các bị cáo một mức án nghiêm minh và buộc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, cả hai bị cáo đều cùng nhau góp tiền đi mua ma túy, sau đó cùng nhau đem ma túy đi cất giấu và sử dụng nên phải chịu trách nhiệm chung về hành vi tàng trữ trái phép 0,728 gam ma túy đá và trong vụ án này Nguyễn Duy Thanh Đ là người đã chủ động rủ Phan Thanh D đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng, chính Đ là người trực tiếp đứng ra mua ma túy. Do đó, Nguyễn Duy Thành Đ giữ vai trò thứ nhất, Phan Thanh D giữ vai trò thứ hai.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo tuy không có tiền án, tiền sự nhưng thuộc đối tượng nghiện ma túy, đã nhiều lần mua ma túy để sử dụng. Xét bản thân của các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị Nhà nước cấm, nghiện ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tuy nhiên xét về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Đ có bố đẻ là ông Nguyễn Duy T là người có công với cách mạng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Vai trò của bị cáo Đ cao hơn so với bị cáo D nhưng thêm tình tiết giảm nhẹ này nên xử bị cáo Đ và bị cáo D mức hình phạt tương đương là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản. Bố mẹ bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ đã ly hôn, hiện nay vợ chồng bị cáo ở chung với mẹ, mẹ bị cáo bị ung thư dạ dày, thường xuyên ốm đau. Bố mẹ bị cáo Phan Thanh D cũng đã ly hôn, bị cáo có hộ khẩu thường trú tại xã Đ, huyện H, tỉnh T cùng với bố nhưng thường xuyên bỏ đi khỏi địa phương. Vì vậy, HĐXX xét thấy không áp dụng khoản 5 Điều 249 BLHS để áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng:

- Đối với chiếc xe Mô tô BKS: 36L6-7236, số máy VDGZS152FMH- J00001891, số khung HJND51001891 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Ngọc T, chị T không biết các bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Lộc đã trả lại xe cho chị T (chủ sở hữu hợp pháp) là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật bên trong có chứa ma túy được hoàn lại sau giám định do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Công Phúc, Lê Minh Tiến và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.Vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2020 giữa Công an huyện Vĩnh Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc.

[6] Vấn đề khác: Đối với đối tượng là người đàn ông mà Đ và D khai đã mua ma túy sử dụng, quá trình điều tra và tại phiên tòa chưa đủ căn cứ xác định để xử lý. Vì vậy, HĐXX đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ khi đủ tài liệu chứng cứ sẽ xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và bị cáo Phan Thanh D phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ 06 ngày đã tạm giữ trước đó (từ ngày 08/01/2020 đến ngày 14/01/2020). Bị cáo phải chấp hành hình phạt còn lại là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phan Thanh D 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (08/01/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; khoản1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015.

Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mẫu vật bên trong có chứa ma túy được hoàn lại sau giám định do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Công Phúc, Lê Minh Tiến và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2020 giữa Công an huyện Vĩnh Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Duy Thành Đ và Phan Thanh D mỗi người phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án Dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;